Biểu tượng của nghệ thuật chiến tranh nhân dân
Chiến thắng Ba Gia không chỉ là sự kiện lịch sử mang yếu tố về quân sự, mà còn tiêu biểu cho nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong chiến dịch Ba Gia mùa hè 1965, nét đặc trưng của nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy về chiến tranh nhân dân tiêu biểu ở 3 yếu tố: Chọn chiến trường, thời cơ; kết hợp lực lượng và cách đánh đầy nghệ thuật mang hiệu suất cao.
Trong cụm tượng đài chiến thắng Ba Gia dưới chân núi Tròn, thôn Diên Niên, xã Tịnh Sơn (Sơn Tịnh) có một bức phù điêu miêu tả 4 nhân vật tượng trưng cho 4 lực lượng: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và quần chúng nhân dân. Phía trên bức phù điêu này còn có 3 trụ đứng vươn lên cao, tượng trưng cho 3 mũi giáp công: Quân sự, chính trị, binh vận trong chiến dịch Ba Gia cách nay tròn 60 năm.
Nghệ thuật chọn chiến trường và thời cơ
Chiến dịch Ba Gia là trận đánh lớn nhất của quân chủ lực của Quân khu 5 tại chiến trường miền Nam lúc bấy giờ. Việc chọn Ba Gia để đánh cấp chiến dịch vào mùa hè 1965 là sự tài tình về tư duy quân sự của Khu ủy 5.
Theo tài liệu nghiên cứu của nhà nghiên cứu Trình Mưu, Viện Lịch sử Đảng, Quảng Ngãi là địa bàn cuối cùng ở phía nam của Vùng chiến thuật 1 của quân ngụy. Thời điểm bấy giờ, phía bắc giới tuyến, ta đã gây sức ép, nên Quân đoàn 1 ngụy tập trung lực lượng để ứng phó, tập trung phòng thủ các mục tiêu quan trọng như Huế, Đà Nẵng, phải bảo vệ vòng ngoài cho các căn cứ Mỹ mới bắt đầu hình thành. Do vậy, việc bố trí lực lượng địch tại chỗ mỏng yếu, sơ hở hơn các nơi khác. Chủ lực ngụy tại Ba Gia (Trung đoàn 51) phải phân tán làm nhiệm vụ giữ các trục đường.

Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 1, Sư đoàn 2, Quân khu 5 và tuổi trẻ huyện Sơn Tịnh dâng hương tại Tượng đài Chiến thắng Ba Gia, ở xã Tịnh Sơn (Sơn Tịnh). Ảnh: XUÂN THIÊN
Tại chiến trường Tây Sơn Tịnh, nếu lấy làng Phước Lộc và Điểm cao 47 làm trung tâm, thì nơi đứng chân của lực lượng chủ lực ta, nơi diễn ra trận then chốt quyết định chỉ cách TX.Quảng Ngãi tầm 10km, cách căn cứ Chu Lai (nơi đóng quân của tiểu đoàn 4 thủy quân lục chiến Mỹ) khoảng 30km. Ở vị trí này, ta có thể tiêu diệt được tiểu đoàn ngụy và lực lượng bảo an, dân vệ, thúc đẩy phong trào cách mạng địa phương.
Không chỉ tính toán chọn địa bàn chiến dịch, Khu ủy 5 còn tính đến yếu tố thời cơ. Hè 1965, địch rơi vào thời điểm khủng hoảng về chiến lược, bị động về chiến dịch bởi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam. Trong khi đó, tại vùng Bắc Quảng Ngãi, phong trào đấu tranh trong quần chúng đã chín mùi, lực lượng dân quân, du kích, bộ đội địa phương đã trưởng thành, đủ sức đánh địch, các lực lượng này đã phối hợp với nhau xây dựng làng chiến đấu, làm chủ nhiều nơi. Do vậy, trong chiến dịch Ba Gia, địch không chỉ đối đầu với chủ lực của ta mà còn bị trói buộc trong một thế trận chiến tranh nhân dân đã bày sẵn.
Mặt khác, Khu ủy 5 cũng nhận định, thời điểm này, dù lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đã hiện diện rất gần chiến trường (Chu Lai), nhưng chúng chưa thể tham chiến, vì chịu sự ràng buộc tạm thời do luận điệu bịp bợm của Tổng thống Mỹ JohnSon là “Quân đội Mỹ vào chỉ để bảo vệ căn cứ Mỹ và người Mỹ”.
Kết hợp 3 thứ quân, 2 lực lượng
Theo nghiên cứu của Trung tướng, PGS Nguyễn Năng - nguyên Phó Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng, Bộ Quốc phòng), nét đặc trưng của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam được vận dụng sáng tạo có tính tiêu biểu trong chiến dịch Ba Gia. Thực hiện trận đánh, ta có quân chủ lực (Trung đoàn 1, Quân khu 5), bộ đội địa phương (Tiểu đoàn 83, Tỉnh đội Quảng Ngãi); dân quân du kích ở các làng xã huyện Sơn Tịnh. Tất cả các lực lượng cùng phối hợp chiến đấu trong một kế hoạch thống nhất dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Khu 5 và Tỉnh ủy Quảng Ngãi.

Tuổi trẻ huyện Sơn Tịnh tổ chức hành trình về nguồn tại Tượng đài Chiến thắng Ba Gia. Ảnh: XUÂN THIÊN
Một đặc điểm thú vị nữa, theo Trung tướng Nguyễn Năng, chỉ có nghệ thuật chiến dịch ở Việt Nam mới sử dụng cấp trung đoàn, đến sư đoàn. Còn ở các nước trong chiến tranh hiện đại, cấp trung đoàn, sư đoàn chỉ làm nhiệm vụ chiến đấu cấp chiến thuật. Trong chiến dịch Ba Gia, quân chủ lực của Quân khu 5 chỉ có 1 trung đoàn tăng cường, nhưng đã phát huy vai trò của bộ đội chủ lực đánh tiêu diệt gọn về chiến thuật, tiêu diệt lớn về chiến dịch.
Ngoài nghệ thuật phối hợp 3 thứ quân, trong chiến dịch Ba Gia, Khu ủy 5 và Tỉnh ủy Quảng Ngãi còn vận dụng đồng thời sức mạnh tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự và phát động quần chúng nổi dậy. Trong khi chiến sự diễn ra, lực lượng quần chúng nhân dân nổi dậy phá kìm kẹp, phá ấp chiến lược, xuống đường đấu tranh trực diện với địch, gây hoang mang cho ngụy quân, ngụy quyền. Nhân dân ở vùng chiến sự còn nuôi giấu bộ đội đảm bảo bí mật; phục vụ chiến đấu, tiếp tế, tải thương, cứu chữa thương binh, thu dọn chiến trường. Những yếu tố về lực lượng tham gia trận chiến đã thể hiện nghệ thuật chiến tranh nhân dân là “toàn dân đánh giặc”, 3 thứ quân làm nòng cốt, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong chiến thắng Ba Gia.
Cách đánh đầy sáng tạo
Về cách đánh, qua tài liệu nghiên cứu của Học viện Quốc phòng, trong trận tiến công Ba Gia là vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách đánh của chiến dịch tiến công trong thời kỳ chống Pháp. Nghệ thuật chiến dịch tiến công đó được khái quát bằng cụm từ “đánh điểm, diệt viện”, với phương châm “lấy đánh địch ngoài công sự là chính”.
Đánh điểm là để khơi ngòi, buộc địch phải ra ứng cứu, phải ra ngoài công sự để ta tiêu diệt. Thực tế, trong chiến dịch Ba Gia, theo kế hoạch, ta khởi đầu đánh tập kích đại đội đóng quân dã ngoại ở Diên Niên, nhưng tới giờ “G” đại đội địch đã cơ động về núi Tròn. Chỉ huy quyết định sử dụng bộ đội địa phương tập kích đội dân vệ ở Phước Lộc, kéo địch từ núi Tròn xuống ứng cứu, và ta đã phục kích tiêu diệt được 1 đại đội đến ứng cứu. Tiếp đó, ta kéo địch từ Gò Cao tiếp tục cứu viện. Khi đó, Tiểu đoàn 90 của ta đã phục kích tiêu diệt luôn Trung đoàn 51 ngụy ra ứng cứu.
Chưa dừng lại ở đó, khi Tiểu đoàn 51 bị tiêu diệt, đồn Gò Cao bị uy hiếp và có nguy cơ bị tiêu diệt, quân ngụy thành lập một chiến đoàn gồm 3 tiểu đoàn, cả lực lượng cơ động chiến lược (Tiểu đoàn 3 thủy quân lục chiến) và 1 tiểu đoàn thiết giáp từ TX.Quảng Ngãi kéo lên Ba Gia ứng cứu.
Cơ hội đã tới, ta sử dụng bộ đội địa phương uy hiếp đồn Gò Cao để tiếp tục kiềm chế, giam chân Tiểu đoàn 37 biệt động quân, tạo điều kiện cho chủ lực đánh trận then chốt. Lực lượng chủ lực của ta gồm 3 tiểu đoàn 40, 60, 45 tổ chức ép địch ở khu vực Phước Lộc, đồi 47, đồi Mã Tổ, vận động, bám sát, bao vây, chia cắt tiêu diệt từng bộ phận lực lượng địch; ta đánh liên tục từ ngày sang đêm. Kết quả là sau 2 ngày chiến đấu liên tục, ta đã tiêu diệt gọn chiến đoàn ứng cứu của ngụy, tiêu diệt 916 tên địch, bắt 65 tên, thu 200 súng các loại.
Trung tướng Nguyễn Năng phân tích, đánh viện, đánh quân ứng cứu, đánh địch ngoài công sự, cũng như nắm thắt lưng địch mà đánh có mối liên hệ và tạo điều kiện cho nhau, có sự thống nhất về nghệ thuật là “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”. Đánh viện, đánh địch ngoài công sự, nắm thắt lưng địch mà đánh là để hạn chế chỗ mạnh của dịch về hỏa lực. Từ ngày mở đầu chiến dịch, ta đều đánh địch ngoài công sự, đã mang lại chiến thắng với hiệu suất cao.
Chiến dịch Ba Gia kéo dài 53 ngày đêm (29/5 - 20/7/1965) gần bằng với chiến dịch Điện Biên Phủ dài 55 ngày đêm (1954) và cũng gần bằng thời gian 57 ngày tổng tiến công chiến lược giải phóng miền Nam (1975). Đây là sự trùng hợp thú vị về thời gian các chiến dịch lớn mang tính chiến lược và đều mang tính bước ngoặt.
Chiến thắng Ba Gia (31/5/1965) là một mốc son chói lọi, đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những bài học về mặt nghệ thuật quân sự và phát huy sức mạnh tổng hợp chiến tranh nhân dân của Chiến thắng Ba Gia vẫn còn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/bieu-tuong-cua-nghe-thuat-chien-tranh-nhan-dan-53140.htm