Bộ Chính trị quy định tiêu chuẩn chọn bí thư và chủ tịch cấp tỉnh

Bộ Chính trị ban hành quy định mới về tiêu chuẩn với các chức danh bí thư, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố.

Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú ký ban hành Quy định số 365 của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Các đại biểu tham dự Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. (Ảnh: Báo Nhân Dân)

Các đại biểu tham dự Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. (Ảnh: Báo Nhân Dân)

6 tiêu chuẩn chung cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp phải đáp ứng liên quan các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật; trình độ, năng lực; uy tín và khả năng quy tụ, đoàn kết; kết quả công tác; sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệm.

Đi kèm với đó, mỗi chức danh cụ thể sẽ phải đi kèm với những tiêu chuẩn cụ thể riêng, theo quy định của Bộ Chính trị.

Với bí thư tỉnh ủy, thành ủy, Bộ Chính trị quy định chức danh này phải bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Bên cạnh đó, người giữ chức danh bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải là người tiêu biểu nhất về đạo đức, trí tuệ, có uy tín cao, là hạt nhân đoàn kết trong thường trực, ban thường vụ, ban chấp hành và đảng bộ.

Chức danh này phải là người có trình độ, kiến thức toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nắm chắc tình hình địa phương và tình hình chung của đất nước. Có kinh nghiệm, năng lực, quyết tâm chính trị cao, quyết đoán, quyết liệt để quyết định xử lý những vấn đề khó, mới, phức tạp liên quan đến địa phương.

Bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải am hiểu sâu rộng về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, quản lý kinh tế - xã hội và công tác vận động quần chúng; có tư duy, năng lực cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào việc hoạch định chiến lược phát triển nhanh và bền vững ở địa phương.

Chức danh này phải là người chủ trì lãnh đạo tổ chức thực hiện kịp thời, có hiệu quả nghị quyết của Trung ương, nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố và nghị quyết của ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy; có khả năng lãnh đạo, điều hành tập thể thường trực, ban thường vụ, ban chấp hành, chỉ đạo toàn diện các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương.

Bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền; chủ động, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới, vấn đề khó, phức tạp; đáp ứng yêu cầu và điều kiện thực tiễn của địa phương và phù hợp với chiến lược phát triển chung.

Họ cũng cần có năng lực chỉ đạo tổng kết đúc rút kinh nghiệm, phát hiện và đề xuất với Trung ương những chủ trương, cơ chế, chính sách mới từ thực tiễn địa phương. Thường xuyên cập nhật kiến thức, đổi mới phương pháp làm việc, có năng lực, quyết tâm, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Bộ Chính trị nêu rõ, bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải là người đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ phó bí thư cấp ủy cấp tỉnh, phó trưởng ban đảng ở Trung ương, thứ trưởng hoặc tương đương trở lên.

Với chủ tịch HĐND tỉnh, thành phố, Quy định số 365 nêu rõ, phải là người có trình độ, kiến thức toàn diện về pháp luật và quản lý nhà nước; am hiểu về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của địa phương. Có khả năng tổ chức và điều hành các hoạt động của HĐND đúng luật, dân chủ, hiệu quả; bảo đảm chất lượng thảo luận và quyết nghị các vấn đề quan trọng của địa phương.

Người giữ chức danh này cần có khả năng lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết thực tiễn, ban hành và giám sát thực hiện có hiệu quả các thể chế, cơ chế, chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại tại địa phương. Có năng lực phối hợp, giữ mối liên hệ với MTTQ, các đoàn thể Nhân dân và công dân; chỉ đạo giải quyết kịp thời các kiến nghị hợp pháp, chính đáng của cử tri.

Bên cạnh đó, họ cần tổ chức, điều hành hoạt động của HĐND hiệu quả và đúng pháp luật. Có năng lực trong tổ chức hoạt động tiếp xúc cử tri và giám sát theo chuyên đề; có khả năng đề xuất giải pháp hiệu quả để xử lý các kiến nghị tồn đọng kéo dài, góp phần nâng cao uy tín của HĐND và tạo niềm tin với Nhân dân.

Chủ tịch HĐND tỉnh, thành phố phải từng kinh qua lãnh đạo chủ chốt cấp xã mới hoặc cấp huyện cũ (bí thư, phó bí thư, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND) lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, phó chủ tịch HĐND, UBND tỉnh hoặc tương đương.

Với chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, Bộ Chính trị yêu cầu phải có trình độ, kiến thức toàn diện về pháp luật và quản lý hành chính Nhà nước; am hiểu sâu về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của địa phương và đất nước, các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư công, cải cách hành chính, chuyển đổi số, quản lý tài chính - ngân sách, chỉ số năng lực cạnh tranh và các yêu cầu quản trị địa phương hiện đại.

Họ cũng là người có năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy, HĐND thành chương trình, kế hoạch của UBND và chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Đồng thời, có năng lực toàn diện về tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành các cơ quan chuyên môn thuộc quyền và UBND cấp dưới; quyết đoán, quyết liệt, kịp thời để quyết định những vấn đề khó, phức tạp liên quan đến quản lý Nhà nước ở địa phương. Có khả năng ứng phó nhanh với các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ như thiên tai, dịch bệnh, bất ổn xã hội hoặc biến động kinh tế - tài chính lớn tại địa phương.

Người đứng đầu chính quyền cấp tỉnh cũng cần có năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành, giải quyết các vấn đề mới, khó, phức tạp; có tinh thần trách nhiệm cao và chủ động, sáng tạo để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền.

Có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết thực tiễn, đề xuất với cấp có thẩm quyền ban hành các thể chế, cơ chế, chính sách phát triển địa phương. Có khả năng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ có chuyển biến tích cực về các chỉ số xếp hạng của địa phương như PCI, PAPI, PAR Index,... Có kiến thức và kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ, tư duy đổi mới, khả năng thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và quản lý các dự án công nghệ cũng như khả năng lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý hiệu quả trong môi trường số.

Cũng theo yêu cầu của Bộ Chính trị, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phải có năng lực tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong Nhân dân, phát triển khoa học, công nghệ đồng bộ, thông suốt, vì sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Ngoài ra, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phải từng kinh qua lãnh đạo chủ chốt cấp xã mới hoặc cấp huyện cũ (bí thư, phó bí thư, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND), lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, phó chủ tịch HĐND, UBND tỉnh hoặc tương đương.

Anh Văn

Nguồn VTC: https://vtcnews.vn/bo-chinh-tri-quy-dinh-tieu-chuan-chon-bi-thu-va-chu-tich-cap-tinh-ar966520.html