Bộ Công Thương cập nhật thông tin mới về tình hình vận hành các hồ thủy điện trên cả nước
Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp vừa có báo cáo cập nhật thông tin về về tình hình vận hành các hồ thủy điện trên cả nước.
Báo cáo ngày 8/6/2023 của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Cục ATMT) Bộ Công Thương cho thấy, hiện lưu lượng nước về các hồ thủy điện trên cả nước tăng nhẹ so với ngày 7/6/2023 nhưng vẫn ở mức rất thấp.
Mực nước các hồ khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ thấp; một số hồ xấp xỉ, dưới mực nước chết. Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên mực nước các hồ ở mực nước yêu cầu theo quy định của Quy trình vận hành. Tuy nhiên lượng nước về hồ chủ yếu để điều tiết nước đảm bảo dòng chảy tối thiểu, các nhà máy thủy điện vận hành phát điện bằng lưu lượng nước về, một số nhà máy phải dừng để đảm bảo an toàn cho tổ máy khi vận hành với lưu lượng và cột nước thấp dưới thiết kế, khó có thể đáp ứng đươc việc phát điện theo quy trình vận hành hồ chứa tại thời kỳ này.
Cụ thể có 9 hồ thủy điện ở mực nước chết gồm: Lai Châu, Sơn La, Thác Bà, Tuyên Quang, Bản Vẽ, Hủa Na, Trung Sơn, Thác Mơ, Trị An.
Và có 11 nhà máy thủy điện phải dừng phát điện vì lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo như: Sơn La, Lai Châu, Huội Quảng, Thác Bà, Tuyên Quang, Bản Vẽ, Hủa Na, Trung Sơn, Trị An, Đại Ninh, Pleikrong.
Việc không thể huy động được nguồn điện từ các thủy điện đã ảnh hưởng tới việc quản lý, vận hành hệ thống điện và cung cấp điện cho sinh hoạt của người dân, cũng như sản xuất của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Theo dự báo tình hình thủy văn, lưu lượng nước về hồ thủy điện trong 24h tới tăng nhẹ nhưng vẫn ở mức thấp.
Ở khu vực Bắc Bộ: Các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, dao động nhẹ so với ngày hôm qua: Hồ Lai Châu: 102 m3/s; Hồ Sơn La: 118 m3/s; Hồ Hòa Bình: 311 m3/s; Hồ Thác Bà: 76m3/s; Hồ Tuyên Quang: 110 m3/s; Hồ Bản Chát: 11 m3/s.
Trừ hồ thủy điện Hòa Bình, mực nước các hồ ở mực nước chết, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết). Cụ thể,Hồ Lai Châu: 265.5 m/ 270 m; Hồ Sơn La: 175.05/175 m; Hồ Hòa Bình: 103.58/80m (yêu cầu mực nước tối thiểu: 81.9 m); Hồ Thác Bà: 45.66/46 m (yêu cầu tối thiểu: 46.5 m); Hồ Tuyên Quang: 90.75/90m (yêu cầu tối thiểu: 90.7m); Hồ Bản Chát: 431.80m/431m.
Tại khu vực Bắc Trung Bộ, các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày hôm qua: Hồ Trung Sơn: 81m3/s; Hồ Bản Vẽ: 38 m3/s; Hồ Hủa Na: 45m3/s; Hồ Bình Điền: 7 m3/s; Hồ Hương Điền: 16m3/s.
Mực nước các hồ ở xấp xỉ mực nước chết, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết). Cụ thể: Hồ Trung Sơn: 147.78/150 m (yêu cầu tối thiểu: 150.7m); Hồ Bản Vẽ: 156.92/155.0 m (yêu cầu tối thiểu: 173.0 đến 176.5m); Hồ Hủa Na: 215.92/215 m (yêu cầu tối thiểu: 220.7 m); Hồ Bình Điền: 67.57/53 m (yêu cầu tối thiểu: 66.8 đến 68.9m); Hồ Hương Điền: 50.48/46 m (yêu cầu tối thiểu: 49.1 đến 50.4m)
Ở khu vực Đông Nam Bộ, các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, giảm nhẹ so với ngày hôm qua: Hồ Thác Mơ: 104 m3/s; Hồ Trị An: 330 m3/s.
Mực nước các hồ ở xấp xỉ mực nước chết, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết) gồm: Hồ Thác Mơ: 199.52/198 m (yêu cầu tối thiểu: 201.0m); Hồ Trị An: 53.03/50 m (yêu cầu tối thiểu: 50.3m);
Ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, tăng nhẹ so với ngày hôm qua: Hồ A Vương: 79 m3/s; Hồ Đăkđrink: 20 m3/s; Hồ Sông Bung 4: 96m3/s; Hồ Sông Tranh 2: 39 m3/s; Hồ Sông Ba Hạ: 419m3/s; Hồ Sông Hinh: 15m3/s.
Mực nước các hồ ở mực nước yêu cầu theo quy định của Quy trình vận hành, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết) gồm: Hồ A Vương (MN hồ/ MNC): 363.63/340 (yêu cầu tối thiểu: 361.5 đến 363.7m); Hồ Đăkđrink: 401.49/375 (yêu cầu tối thiểu: 319.9m đến 393.5m); Hồ Sông Bung 4: 218.07/205 m (yêu cầu tối thiểu: 213.5m đến 215.2m); Hồ Sông Tranh 2: 159.79/140m (yêu cầu tối thiểu: 159.6m đến 161.2m); Hồ Sông Ba Hạ: 103.58/101 m (yêu cầu tối thiểu: 102.4m đến 103.2 m); Hồ Sông Hinh: 205.10/196 m (yêu cầu tối thiểu: 204.3m đến 205.0m)
Tại Khu vực Tây Nguyên, các hồ thủy điện lưu lượng về hồ thấp, tăng nhẹ so với ngày hôm qua: Hồ Buôn Kuốp: 110m3/s; Hồ Buôn Tua Srah: 87 m3/s; Hồ Đại Ninh: 16m3/s; Hồ Hàm Thuận: 93 m3/s; Hồ Đồng Nai 3: 36 m3/s; Hồ Ialy: 273 m3/s; Hồ Pleikrông: 244 m3/s; Hồ Sê San 4: 106 m3/s; Hồ Thượng Kon Tum: 16 m3/s;
Mực nước các hồ ở mực nước yêu cầu theo quy định của Quy trình vận hành, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết): Hồ Buôn Kuốp: 410.01/409 m; Hồ Buôn Tua Srah: 469.82/465 m (yêu cầu tối thiểu: 468.4 m); Hồ Đại Ninh: 865.14/860m (yêu cầu tối thiểu: 862.4m); Hồ Hàm Thuận: 582.42/575m (yêu cầu tối thiểu: 580.3m); Hồ Đồng Nai 3: 571.75/570 m (yêu cầu tối thiểu: 571.8m); Hồ Ialy: 501.92/490 m (yêu cầu tối thiểu: 492.4m); Hồ Pleikrông: 548.12/537m (yêu cầu tối thiểu: 547.6m); Hồ Sê San 4: 210.94/210m (yêu cầu tối thiểu: 210.3m); Hồ Thượng Kon Tum: 1148.11/1138 m (yêu cầu tối thiểu: 1141.6m).
Ông Trần Việt Hòa - Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực, Bộ Công Thương cho biết, duy nhất hồ thủy điện Hòa Bình còn nước trong hồ và có thể duy trì phát điện đến khoảng ngày 12-13/06. Tổng công suất không huy động được của các nguồn thủy điện miền Bắc nêu trên sẽ ở mức 5.000 MW và có thể lên đến 7.000MW khi hồ thủy điện Hòa Bình về mực nước chết. Như vậy, tính đến ngày 06/6/2023, công suất khả dụng của thủy điện là 3.110 MW chỉ đạt 23,7% công suất lắp.
Theo dự báo tình hình nắng nóng khô hạn vẫn có thể tiếp diễn trong nhiều ngày tới, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc sản xuất, huy động nguồn điện từ thủy điện. Do đó, cơ quan chức năng khuyến cáo người dân, doanh nghiệp cần sử dụng điện tiết kiệm; sử dụng nguồn nước tiết kiệm và hiệu quả.
Báo Công Thương sẽ tiếp tục cập nhật thông tin...