Bộ Nội vụ lấy ý kiến tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
'Ở đâu có bà Bình, người ta không còn nhìn thấy ai khác…, khi nghe bà Bình nói, người ta không còn muốn nghe ai khác…, bà bí ẩn…, tinh tế…' , nhà văn Thụy Điển Sara Lidman đã viết về nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình như thế trong cuốn 'Trong trái tim thế giới'.
“Madame Bình” và Hiệp định Paris
Trong những ngày cờ hoa nhuộm đỏ từng nẻo đường, góc phố và lan rộng trên mạng xã hội. Clip tư liệu về các nhà cách mạng lừng danh của Việt Nam được lan tỏa mạnh mẽ, trong đó có những hình ảnh sống động về nhà ngoại giao tài ba. Đó là hình ảnh bà Nguyễn Thị Bình thông minh, sắc bén, hiên ngang trong hành trình đàm phán ký kết Hiệp định Paris năm 1973, với những phát ngôn khiến cả thế giới sửng sốt như: “Người Mỹ có thể lên Mặt trăng và trở về an toàn. Còn sang Việt Nam, thì chúng tôi không chắc”.
Năm 1968, bà Bình đại diện cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tham gia đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. “Tôi ra đi với bao nhiêu cảm xúc trong lòng, nhưng tâm niệm phải làm hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, xứng đáng với lòng tin cậy của lãnh đạo. Tài liệu tôi mang theo là Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, một số tài liệu về các phương án đấu tranh và lời dặn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh do các đồng chí ban Thống nhất truyền đạt lại: Trong đấu tranh phải luôn luôn giữ vững lập trường nguyên tắc: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Và tôi nghĩ hai đoàn đàm phán Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) đã thực hiện đúng lời chỉ bảo đó”, bà Bình viết trong hồi ký về ngày lên đường đến Thủ đô Paris hoa lệ.
Suốt gần 5 năm diễn ra cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử thế giới, báo giới phương Tây đã rất ấn tượng với hình ảnh của “Madame Bình” (tên mà các nhà báo phương Tây gọi bà khi đó), người phụ nữ thường xuất hiện trong trang phục áo dài lịch thiệp.
Bà tham gia các cuộc họp báo, có sự kiện lên đến 400 nhà báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, đi khắp các châu lục tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của Nhân dân Việt Nam. Bà luôn nêu rõ lập trường chính nghĩa của Mặt trận và thiện chí muốn tìm một giải pháp hòa bình.
Đứng trước truyền thông quốc tế hay những nhà ngoại giao lão luyện, bà Bình thể hiện sự thông minh khiến nhiều người bất ngờ. Nhiều nhà báo quốc tế khi ấy tò mò một cách có chủ ý về Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình. Có phóng viên soi mói: “Bà có phải là đảng viên cộng sản không?”, bà chỉ mỉm cười: “Tôi là người yêu nước, đảng tôi là đảng yêu nước, kiên quyết đấu tranh cho độc lập, tự do của đất nước”.
Trong số 4 đoàn đàm phán, chỉ riêng đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam có thành viên là nữ (ngoài bà Bình còn một số thành viên nữ khác). Bà Bình và cộng sự đã khéo léo, chuẩn bị thông tin để đưa ra những đòn tấn công ngoại giao sắc bén, cùng các thành viên trong 2 đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thiết lập một thế trận “tuy hai mà một, tuy một mà hai”.
Bộ Nội vụ đang tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về việc trình xét tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là hoạt động theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và Nghị định 152/2025, nhằm tôn vinh những đóng góp to lớn của bà trong lĩnh vực ngoại giao - một mặt trận quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Trước đó, ngày 7/8, Văn phòng Chủ tịch nước đã có tờ trình đề nghị Thủ tướng xét, trình Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu này cho bà Nguyễn Thị Bình.
Sau nhiều nỗ lực, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Bà Bình xúc động: “Tôi như thay mặt Nhân dân và các chiến sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ đấu tranh trên tiền tuyến và trong lao tù cắm ngọn cờ chiến thắng chói lọi. Vinh dự đó đối với tôi thật quá to lớn. Tôi không có đủ lời để nói lên được lòng biết ơn vô tận đối với đồng bào và chiến sĩ ta từ Nam chí Bắc đã chấp nhận mọi hy sinh, dũng cảm chiến đấu để có được thắng lợi to lớn hôm nay, biết ơn Bác Hồ và cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tin cậy giao cho tôi nhiệm vụ khó khăn nhưng rất vẻ vang này…”.
Hội nghị Paris là một trong những cuộc đàm phán dai dẳng và phức tạp nhất trong lịch sử thế giới, kéo dài suốt 4 năm 8 tháng 16 ngày với hơn 200 cuộc họp chính thức, 45 cuộc họp riêng, 500 cuộc họp báo và hàng nghìn cuộc phỏng vấn. Trong suốt quá trình ấy, bà Nguyễn Thị Bình, người phụ nữ duy nhất có mặt trên bàn ký kết, đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn bè quốc tế.
Cùng với các nhà ngoại giao Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, bà đã góp phần tạo nên “bộ ba thương lượng” nổi tiếng, buộc đối phương phải chấp nhận những điều khoản cơ bản để đi tới ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Đây là văn kiện lịch sử, mở đường cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước.
Người phụ nữ Việt đi cùng lịch sử đất nước
Trong dòng chảy lịch sử hiện đại, bà Nguyễn Thị Bình - người phụ nữ ký tên vào Hiệp định Paris mãi là biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ, nhân văn. Việc đề xuất phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà chính là sự khẳng định: đất nước không quên những người đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho Tổ quốc, cho Nhân dân, cho hòa bình.
Nhìn lại chặng đường lịch sử, các chuyên gia ngoại giao đều khẳng định Hiệp định Paris là đỉnh cao của nghệ thuật đối ngoại Việt Nam thế kỷ XX. Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên gọi đó là “cuộc đàm phán dai dẳng, quyết liệt nhất trong cục diện vừa đánh, vừa đàm”, nơi mà thắng lợi quân sự tạo đòn bẩy cho ngoại giao và ngoại giao mở đường cho chiến trường. Cũng theo ông Nguyễn Dy Niên, dân tộc ta qua mỗi cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước có rất nhiều anh hùng và bà Nguyễn Thị Bình xứng đáng là anh hùng trên mặt trận ngoại giao.

Bà Nguyễn Thị Bình (trái) phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris, ở Hà Nội tháng 1/2023. (Ảnh: BNG)
Bà Nguyễn Thị Bình tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, cháu gái cụ Phan Châu Trinh, cha là Trưởng ban Công binh Nam Bộ. Tên khai sinh của bà Bình gắn với tỉnh Sa Đéc (cũ) nơi cha bà, một viên chức ngành trắc địa từng công tác.
Quê gốc của bà ở Quảng Nam, một vùng chiến trường ác liệt nhất cả nước, vùng quê trung dũng, kiên cường, nhiều năm tháng “đứng mũi chịu sào” trong cuộc chiến tranh chống xâm lược.
Từ nhỏ, bà Bình được cha rèn cho tinh thần ham học, yêu lao động, cách nhìn nhận mỗi người qua thái độ lao động. Khi cha bà sang Campuchia công tác, cả gia đình cũng đi theo. Bà được học tại trường trung học lớn nhất của Campuchia, ngôi trường có nhiều con cái công chức người Pháp hoặc có quốc tịch Pháp.
Năm bà 16 tuổi, người mẹ không may qua đời vì đau yếu, bà cùng cha lo toan việc gia đình, thay mẹ lo cho các em. Ngày còn đi học, bà ước trở thành bác sĩ để chữa bệnh cho mẹ và những người nghèo nhưng khi nghe những bản nhạc hùng tráng, bài hát kêu gọi thanh niên “đứng lên đáp lời núi sông” của Lưu Hữu Phước bà lại thấy bừng bừng trong tim.
Chính vì vậy, ngay khi xuất hiện hoạt động của Hội Việt kiều yêu nước tại Phnom Penh, gia đình bà Bình đã hăng hái tham gia. Sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương năm 1945, như nhiều người Việt, bà Bình gác lại việc thi tú tài, cùng gia đình về nước trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh lớn của dân tộc.
Nghe theo tiếng gọi của non sông, bà Bình tham gia nhiều hoạt động, thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1951, người phụ nữ kiên trung bị địch bắt, chịu nhiều màn tra tấn tàn bạo nhưng vẫn âm thầm tổ chức các hoạt động học tập văn hóa, chính trị trong tù.
Sau khi được trả tự do, bà Bình được điều về Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương và rồi “bén duyên” với ngoại giao từ năm 1961. Từ đây, bà đổi tên Châu Sa thành Nguyễn Thị Bình với hàm ý là “hòa bình”. Trong hồi ký Gia đình, bạn bè và đất nước và tuyển tập Tấm lòng với Đất nước, bà nhiều lần chia sẻ rằng: “Cuộc sống của tôi gắn với cuộc sống của dân tộc”. Ở tuổi 98, bà vẫn giản dị, hóm hỉnh, theo dõi thời sự hàng ngày, luôn trăn trở về thế hệ trẻ và tương lai đất nước. Trong một lần tâm sự, bà nói: “Tôi ví đất nước như con thuyền. Qua bao thác ghềnh, con thuyền Tổ quốc đã ra biển lớn, phía trước là chân trời mới”. Đó không chỉ là một hình ảnh đẹp, mà còn là triết lý sống, triết lý lãnh đạo của một nhân cách lớn.
Bà kể, trong 5 năm đấu tranh bền bỉ tới ngày ký Hiệp định Paris, có lúc bà đọc đi đọc lại mấy dòng chữ nguệch ngoạc của con gái: “Chừng nào mẹ về với chúng con” mà thắt lòng. Dẫu vậy, bà nén nỗi nhớ thương chồng con, trong lòng luôn mãnh liệt niềm tin chiến thắng bởi tin rằng cái gì phải đến, tất sẽ đến.
Bà từng viết: “Tôi là người hạnh phúc vì đã lấy được người mình yêu. Điều tôi hạnh phúc là người yêu của tôi vẫn chung thủy dù xa cách nhau 9 năm, anh ấy đi bộ đội ngoài miền Bắc còn tôi hoạt động trong miền Nam. Chúng tôi vẫn chờ đợi nhau và đến khi gặp lại nên duyên vợ chồng, đó là hạnh phúc. Tôi thường xuyên công tác nên hay xa gia đình, nhưng những người thân yêu luôn ở cạnh, gắn bó và là động lực trong mọi công việc. Không thể tách ảnh hưởng và tình thương của gia đình trên mỗi bước đường nhiều nỗi gian truân của mình - đó là sức mạnh, cũng là hạnh phúc của đời tôi”...
Từ nhà ngoại giao đến nhà giáo dục
Không chỉ thành công trên mặt trận ngoại giao, sau ngày đất nước thống nhất, bà còn đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976 - 1987) trong giai đoạn vô cùng khó khăn. Bà là người đề xuất và chính thức hóa ngày 20/11 trở thành Ngày Nhà giáo Việt Nam, cùng với các danh hiệu “Nhà giáo Nhân dân”, “Nhà giáo Ưu tú” - những chính sách thể hiện sự tri ân, khẳng định vai trò của thầy cô trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Sau đó, bà tiếp tục giữ chức vụ Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992 - 2002), tham gia nhiều hoạt động ngoại giao nhân dân, góp phần mở rộng quan hệ quốc tế trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trong suốt sự nghiệp, bà Nguyễn Thị Bình đã được trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Chiến sĩ thi đua toàn quốc (1974), Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất (2001), Huân chương Đại đoàn kết (2013), Huân chương Tự do hạng Nhất của Lào (2025)...