Bộ Nội vụ nêu lý do phải thay đổi tiêu chí phân loại đơn vị hành chính
Theo nhận định của Bộ Nội vụ, nếu tiếp tục áp dụng các tiêu chí, thang điểm và ngưỡng phân loại đơn vị hành chính cũ sẽ dẫn đến tình trạng kết quả phân loại không còn sát với thực tế, làm sai lệch đánh giá về vị trí, vai trò, mức độ phát triển của từng địa phương.
Bộ Tư pháp đang thẩm định hồ sơ dự thảo Nghị định về phân loại đơn vị hành chính, do Bộ Nội vụ trình.
Còn mang tính thiên lệch về quy mô
Theo dự thảo Tờ trình, quá trình sắp xếp các đơn vị hành chính (ĐVHC) năm 2025 đã làm thay đổi căn bản quy mô địa bàn và dân số trung bình, vượt xa ngưỡng chuẩn được xây dựng trong Nghị quyết 1211/2016 về tiêu chuẩn và phân loại ĐVHC (sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị quyết 27/2022) Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bên cạnh đó, việc hình thành “đặc khu” là loại hình ĐVHC hoàn toàn mới, nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết 1211. Nếu tiếp tục áp dụng các tiêu chí, thang điểm và ngưỡng phân loại cũ của Nghị quyết 1211 sẽ dẫn đến tình trạng kết quả phân loại không còn sát với thực tế, làm sai lệch đánh giá về vị trí, vai trò, mức độ phát triển của từng địa phương. Từ đó, ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực và tổ chức bộ máy chính quyền.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà. Ảnh: QH
Mặt khác, Nghị quyết 1211 trước đây "mang tính thiên lệch về quy mô", chú trọng dân số, diện tích, số đơn vị trực thuộc. Trong khi nhóm tiêu chí phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội chỉ dừng ở các chỉ số truyền thống, chưa bao quát các yếu tố "động" ngày càng có vai trò quyết định với hiệu quả quản trị địa phương, như năng suất lao động, mức độ chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính...
“Điều này dẫn tới việc địa phương đông dân, rộng lớn thường được xếp loại cao, trong khi nơi quy mô nhỏ nhưng triển khai hiệu quả chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính… lại khó cải thiện phân loại” – tờ trình Bộ Nội vụ nêu rõ.
Cạnh đó, Nghị quyết 1211 chỉ quy định việc phân loại ĐVHC trong những trường hợp thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới mà không thiết lập cơ chế bắt buộc rà soát định kỳ. Hệ quả là nhiều địa phương “được xếp rồi để đó”, giữ nguyên loại hình hàng chục năm dù có biến động lớn về dân số, kinh tế - xã hội, năng lực quản trị… khiến kết quả phân loại không còn phản ánh đúng thực trạng, không tạo động lực để địa phương cải cách, đổi mới.
Bổ sung các yếu tố "động"
Dự thảo mới vẫn giữ tổng điểm tối đa 100 nhưng phân bổ lại theo ba nhóm tiêu chí gồm quy mô (dân số, diện tích, số đơn vị trực thuộc) chiếm 50 điểm; điều kiện kinh tế - xã hội chiếm 40 điểm; yếu tố đặc thù chiếm 10 điểm.
Ở nhóm đơn vị cấp xã (xã, phường, đặc khu), cách phân bổ này được tính như sau: Dân số tối đa 25 điểm, diện tích tối đa 25 điểm, kinh tế - xã hội tối đa 40 điểm và đặc thù tối đa 10 điểm.
Cùng với đó, dự thảo bổ sung cơ chế điểm tăng thêm theo tỉ lệ phần trăm mức chênh lệch khi địa phương vượt các ngưỡng chuẩn của tiêu chuẩn/tiêu chí.

Dự thảo giữ nguyên ngưỡng phân loại ĐVHC I-II-III như quy định hiện hành. Ảnh: HUỲNH DU
Dự thảo giữ nguyên ngưỡng phân loại ĐVHC I-II-III theo tổng điểm (từ 75 điểm trở lên là loại I, từ 60 điểm đến dưới 75 điểm là loại II và dưới 60 điểm là loại III) như quy định hiện hành nhưng thay đổi nội dung tiêu chí. Quy định này sẽ không áp dụng với TP Hà Nội và TP.HCM – vốn là ĐVHC loại đặc biệt được xác định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Đáng chú ý, ở nhóm 40 điểm về tiêu chí kinh tế - xã hội, bên cạnh các chỉ tiêu về thu – chi ngân sách nhà nước; thu nhập bình quân, tỉ lệ hộ nghèo đa chiều…, dự thảo đã bổ sung các chỉ số “động” như tốc độ tăng năng suất lao động, tỉ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội; tỉ lệ hộ gia đình có kết nối Internet, tỉ lệ hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý qua dịch vụ công trực tuyến toàn trình.
“Việc bổ sung các chỉ số “động” giúp phân loại không chỉ dừng lại ở quy mô dân số, diện tích mà còn đánh giá năng lực điều hành, chuyển đổi số, cải cách hành chính – những yếu tố ngày càng quyết định đến chất lượng phát triển của địa phương” - theo Bộ Nội vụ.
Dự thảo nghị định cũng đề xuất một nội dung hoàn toàn mới là rà soát, phân loại lại định kỳ 5 năm/lần. Theo đó, UBND cấp tỉnh và UBND cấp xã lập báo cáo, đối chiếu sự thay đổi các tiêu chí, tiêu chuẩn phân loại đơn vị hành chính so với kỳ liền trước kèm số liệu cụ thể và nêu rõ các kiến nghị liên quan. Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ chủ trì khảo sát, thẩm định kết quả và công nhận kết quả theo quy định, thẩm quyền.
Dự thảo Nghị định cũng quy định thẩm quyền quyết định phân loại ĐVHC cấp tỉnh là Bộ trưởng Bộ Nội vụ (quy định hiện hành là Thủ tướng). Quy định này bảo đảm thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đồng thời khắc phục việc Thủ tướng quyết định các vấn đề cụ thể thuộc lĩnh vực chuyên môn của các Bộ, ngành.
Lý do cần có quy định mới
Theo tờ trình, từ thực tiễn triển khai, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các nghị quyết về sắp xếp ĐVHC cấp xã của 34 tỉnh, thành phố năm 2025.
Sau sắp xếp, cả nước có 34 ĐVHC cấp tỉnh và 3.321 ĐVHC cấp xã (có 13 đặc khu). Diện tích trung bình của ĐVHC cấp tỉnh là 9.743 km², tăng 4.484 km² (tăng 85,3%), dân số trung bình của ĐVHC cấp tỉnh là 3.36 triệu người (tăng 85,3%).
Do đó, nếu tiếp tục áp dụng các tiêu chí, thang điểm và ngưỡng phân loại cũ của Nghị quyết 1211 sẽ dẫn đến tình trạng kết quả phân loại không còn sát với thực tế, làm sai lệch đánh giá về vị trí, vai trò, mức độ phát triển của từng địa phương, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực và tổ chức bộ máy chính quyền.
Theo Bộ Nội vụ, việc ban hành nghị định này nhằm xác lập khung pháp lý thống nhất, minh bạch và khả thi cho việc xác định tiêu chí, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và cơ chế cập nhật kết quả phân loại ĐVHC theo định kỳ. Qua đó, bảo đảm việc phân loại phản ánh sát thực trạng quy mô, điều kiện phát triển, đặc thù vùng miền và năng lực vận hành của chính quyền địa phương.
Đồng thời, làm căn cứ quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng loại hình ĐVHC; xây dựng tổ chức bộ máy, phân cấp quản lý và bố trí nguồn lực (nhân lực, tài lực) theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cạnh đó là thiết kế hợp lý chế độ, chính sách tiền lương, phụ cấp, biên chế đối với đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương.