BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG THƯƠNG TRẦN TUẤN ANH GIẢI TRÌNH VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN THỦY ĐIỆN

Chiều ngày 4/11/2020, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, trong phiên thảo luận về tình hinh kinh tế - xã hội, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh đã giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu liên quan đến công tác quản lý các dự án thủy điện, tác động của các dự án này đối với tình hình lũ bão và quy trình vận hành hồ đập thủy điện ở Việt Nam.

Toàn cảnh phiên họp chiều ngày 4/11/2020.

Toàn cảnh phiên họp chiều ngày 4/11/2020.

Phát biểu tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh chia sẻ với cán bộ, chiến sỹ, nhân dân ở các địa phương về các thiệt hại do bão lũ, thiên tai gây ra. Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cho biết, các ý kiến của đại biểu tại phiên thảo luận cũng như cử tri cả nước đang rất quan tâm đến công tác quản lý các dự án thủy điện, nhất là trong bối cảnh thiên tai, bão lũ đã tác động đến đời sống kinh tế, xã hội của nhân dân, gây ra nhiều thiệt hại về người và tài sản.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, hiện cả nước có 429 đập thủy điện và công trình thủy điện ở các quy mô khác nhau, với dung tích thiết kế khoảng 56 tỉ mét khối, công suất 20 ngàn mê-ga-oát, tương đương khoảng 37% công suất phát điện của cả nước. Đây là nguồn năng lượng rất quan trọng phục vụ nhu cầu năng lượng của đất nước, phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu đời sống của nhân dân. Hiện năng lượng từ thủy điện là loại năng lượng tái tạo rất quan trọng, mức độ ô nhiễm ít, chất thải gần như không có. Chính vì vậy, việc quản lý và khai thác nguồn năng lượng tái tạo này như thế nào để đảm bảo giảm thiểu tác động đến môi trường và phát huy tối đa hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng.

Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, thủy điện có cả mặt tích cực và mặt hạn chế tùy thuộc vào công tác quản lý, các chính sách xử lý vấn đề liên quan. Về mặt tích cực, nguồn điện đóng góp cơ cấu điện quan trọng cho đất nước; giúp phát triển các khu kinh tế xã hội ở các địa phương cũng như trong phát triển năng lượng điện cho cả nước, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, giảm thiểu tác động đến môi trường. Các dự án thủy điện cũng bổ sung nguồn quan trọng trong chiến lượng năng lượng trong tương lai. Ngoài chức năng phát điện, hồ chứa nước của các đập thủy điện còn có tác dụng tích nước, có thể cắt giảm lũ phục vụ nhu cầu phát triển khác của địa phương.

Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những mặt tiêu cực do thủy điện gây ra đặc biệt là những tác động đến môi trường đất, nước, khí hậu cũng như đời sống dân sinh. Đây là vấn đề tổng thể, tùy thuộc vào cách thức vận hành, quản lý của con người trong khai thác nguồn lực từ thiên nhiên. Những tác động của dự án thủy điện đến dòng chảy, tác động đến địa chất trong khu vực cũng như nguồn lợi thủy sản, đời sống của nhân dân cũng là thực tế đang xảy ra. Trong giai đoạn trước đây, nhiều dự án thủy điện ở Việt Nam xảy ra tình trạng chiếm dụng diện tích rừng tự nhiên, gây ra những ảnh hưởng lớn như đại biểu đã nêu, đặc biệt là ảnh hưởng đến rừng đầu nguồn, chức năng của rừng trong phòng, chống lũ bão.

Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh giải trình, làm rõ vấn đề đại biểu nêu liên quan đến công tác quản lý các nhà máy thủy điện.

Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh giải trình, làm rõ vấn đề đại biểu nêu liên quan đến công tác quản lý các nhà máy thủy điện.

Tư lệnh ngành Công thương cũng khẳng định, từ lâu quản lý thủy điện đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội, Chính phủ. Đặc biệt từ sau Nghị quyết số 62 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện được ban hành và tiếp sau đó là Nghị quyết 11 của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 62 của Quốc hội, công tác quản lý các dự án thủy điện nói chung, cũng như quản lý an toàn hồ, đập thủy điện và việ vận hành các công trình thủy điện được đảm bảo ở mức mới cao hơn. Cụ thể, hàng năm Bộ Công thương đều tiến hành kiểm tra, giám sát và báo cáo đầy đủ theo tinh thần chỉ đạo Nghị quyết 62 của Quốc hội về độ an toàn của hồ đập thủy điện và quy trình vận hành hệ thống thủy điện, đặc biệt trong việc tham gia phòng chống lũ bão và phòng chống thiên tai tại địa phương.

Bộ Công thương cũng thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư, Quốc hội và Chính phủ về việc khiểm soát chặt chẽ công tác phát triển thủy điện đó là trong quá trình xây dựng nhà máy thủy điện không cho phép xâm dụng vào rừng tự nhiên. Từ năm 2016 Bộ Công thương đã phối hợp với các bộ, ngành tuyệt đối không bổ sung bất kỳ một dự án thủy điện nếu sử dụng đến đất rừng tự nhiên. Trên thực tế, từ năm 2016 đến nay, các dự án bổ sung thủy điện không có dự án nào sử dụng diện tích rừng tự nhiên. Thông tư 43 của Bộ Công thương đã quy định về quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng dự án thủy điện và vận hành khai thác công trình thủy điện đã quy định chiếm dụng đất không quá 10 hecta/1 mê-ga-oát điện nhưng trên thực tế trong giai đoạn này các dự án thủy điện chỉ chiếm dụng đất (đất sản xuất, đất rừng sản xuất) 1,9 hecta/1 mê-ga-oát, điều này chứng tỏ việc thực thi trên thực tế rất chặt chẽ.

Liên quan ý kiến của đại biểu Quốc hôi về xem xét, đánh giá hiệu quả của các dự án thủy điện, nhất là thủy điện nhỏ và vừa, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, trong giai đoạn này, Chính phủ đã đưa ra khỏi quy hoạch thủy điện 472 dự án. Đồng thời, đưa ra khỏi 8 dự án thủy điện bậc thang ở các lưu vực sông; 213 điểm tiềm năng cho phát triển thủy điện cũng được đưa ra khỏi Quy hoạch thủy điện.

Về ý kiến của đại biểu liên quan đến việc vận hành an toàn hồ đập, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, hiện có hàng loạt các công cụ pháp lý như: Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Điện lực, Luật Phòng, chông thiên tai…để điều chỉnh các hoạt động của thủy điện, gắn với phòng, chống thiên tai và bảo vệ an toàn hồ thủy lợi, hồ thủy điện. Hiện nay Chính phủ đã ban hành các thông tư trong đó phân cấp rõ trách nhiệm và quy trình vận hành để đảm bảo an toàn.

Đối với việc vận hành các hồ, đập thủy điện trong việc tham gia phương án phòng, chống lụt bão, giảm thiểu tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân, hiện cũng có hàng loạt văn bản pháp quy hướng dẫn, như Thông tư 47 của Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu các chủ đập phối hợp với chính quyền các địa phương thiết lập hệ thống giám sát, quan trắc tự động về khí tượng thủy văn cũng như đo mưa và giám sát hệ thống vận hành của các nhà máy thủy điện, căn cứ trên lượng mưa về đập cũng như lượng xả từ đập về hạ du, với nguyên tắc lượng nước xả không vượt quá lượng nước về đập.

Về câu hỏi của đại biểu đề nghị đánh giá hiệu quả cũng như nguy cơ gây thiệt hại của các nhà máy thủy điện, Bộ trưởng thống nhất ý kiến đại biểu và cho rằng mặc dù công cụ pháp lý về vấn đề này tương đối đầy đủ nhưng không tránh khỏi một số địa phương thực thi không nghiêm. Điển hình như tại Thủy điện Hố Hô năm 2016 đã xả lũ vượt quá lượng nước về hồ, gây thiệt hại nặng nề cho nhân dân vùng hạ du. Vấn đề này, cơ quan chức năng đã xử lý kiên quyết, thu hồi giấy phép hoạt động điện và yêu cầu khắc phục hậu quả. Về câu chuyện thủy điện ảnh hưởng như thế nào đến tình hình lũ bão, ngập lụt, nguy cơ sạt lở đất ở miền Trung, trong đó có vụ động đất tại khu vực Sông Tranh, Bộ trưởng cho biết, thời gian qua đã tham gia cùng Đoàn công tác của Chính phủ tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Qua khảo sát thực tế và tham khảo các nhà khoa học, có thể khẳng định tình trạng sạt lở, gây tổn hại nghiêm trọng về người và tài sản ở miền Trung đều gắn chặt với yếu tố cực đoan của thời tiết. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, những liên quan đến mất diện tích rừng đầu nguồn và thảm thực vật, mất độ kết dính của đất là do tác động của con người trong đó có cả các Dự án thủy điện. Do vậy, cần phải xác định giải pháp ứng phó với thiên tai bão lũ là vấn đề mới, trong đó chú trọng tới công tác dự báo phòng chống thiên tai và xây dựng các bản đồ khu vực sụt lún và nguy cơ biến đổi cực đoan của khí hậu.

Thời gian tới, Bộ Công thương sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa trong công tác quản lý nhà nước để đảm bảo hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội gắn với phòng chống thiên tai; đồng thời tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Bộ Công thương sẽ làm việc với các ngành, địa phương đánh giá các mặt tích cực, tiêu cực, từ đó tham mưu Chính phủ cơ chế, chính sách nhằm siết chặt công tác quản lý thủy điện, hạn chế tối đa tác động đến môi trường và đảm bảo khai thác tốt nguồn tài nguyên đất nước./.

Lan Hương - Minh Thành

Nguồn Quốc Hội: http://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=49655