Bộ Y tế đặt mục tiêu đến năm 2030 ít nhất 2 triệu người được đào tạo cấp cứu ngoại viện
Mặc dù cấp cứu ngoại viện hiệu quả giúp cứu sống người bệnh trong 'thời gian vàng' là thời điểm quyết định sự sống còn, tuy nhiên, theo Bộ Y tế hệ thống cấp cứu ngoại viện tại Việt Nam hiện nay vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức...
TS.BS Hà Anh Đức - Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, dự thảo Đề án phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện giai đoạn 2025-2030 đang được Bộ Y tế gửi xin ý kiến các đơn vị liên quan.
Việt Nam chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh, toàn diện dành riêng cho hệ thống cấp cứu ngoại viện
Tại dự thảo, Bộ Y tế nêu rõ cấp cứu ngoại viện có vai trò rất quan trọng trong hệ thống y tế, đặc biệt là trong việc bảo vệ tính mạng và sức khỏe người dân ngay tại cộng đồng hoặc hiện trường tai nạn.
Cấp cứu ngoại viện hiệu quả giúp cứu sống người bệnh trong “thời gian vàng” là thời điểm quyết định sự sống còn; giúp can thiệp sớm, duy trì chức năng sống trước khi vào bệnh viện; giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng về thần kinh, tim mạch, hô hấp…; tăng cường khả năng phản ứng trong thảm họa, tai nạn hàng loạt (tai nạn giao thông nghiêm trọng, cháy nổ, thiên tai…);

Giảng viên, chuyên gia cấp cứu trong nước và quốc tế tại một khóa tập huấn về cấp cứu ngoại viện.
Cấp cứu ngoại viện duy trì trật tự, phân loại người bệnh tại hiện trường và điều phối chuyển viện hợp lý; kết nối hiệu quả giữa cộng đồng và bệnh viện, giúp tiếp cận người bệnh từ sớm, đồng thời giúp bệnh viện chuẩn bị sẵn phương án tiếp nhận; góp phần giảm tải bệnh viện, xử trí ban đầu hiệu quả, giảm số lượng ca nặng cần nhập viện hoặc giảm thời gian nằm viện.
Cấp cứu ngoại viện góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và niềm tin cộng đồng về sự sẵn sàng và hiệu quả của hệ thống y tế, là một trong những tiêu chí quan trọng trong đánh giá năng lực của hệ thống y tế.
Dẫn dữ liệu từ nhiều quốc gia, Bộ Y tế thông tin, hệ thống cấp cứu ngoại viện đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ tử vong và hạn chế mức độ nghiêm trọng của chấn thương. Tại Hoa Kỳ, cấp cứu ngoại viện giúp giảm tỷ lệ tử vong và chấn thương nặng từ 20 - 40%. Tại Đức, tỷ lệ tử vong do chấn thương giảm trung bình 35% nhờ can thiệp y khoa trước viện. Giảm tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông từ 60% xuống 20% (Hoa Kỳ); 35% xuống 15% (Anh); 40% xuống 25% (Kenya, Nigeria, Tanzania).
Theo Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, mạng lưới tổ chức hệ thống cấp cứu ngoại viện cũng bước đầu được thiết lập. Một số tỉnh, thành phố đông dân cư thành lập các trung tâm cấp cứu độc lập ngoài bệnh viện (còn gọi là Trung tâm Cấp cứu 115).
Một số địa phương khác thành lập và điều phối cấp cứu ngoại viện do bệnh viện đa khoa tỉnh chịu trách nhiệm hoặc có sự tham gia của các đơn vị tư nhân. Tuy nhiên, hệ thống cấp cứu ngoại viện tại Việt Nam hiện nay vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, mặc dù đã có những nỗ lực cải thiện từ phía các cơ quan quản lý và ngành Y tế.
Cụ thể, Việt Nam chưa có một khung pháp lý hoàn chỉnh và toàn diện dành riêng cho hệ thống cấp cứu ngoại viện; chưa ban hành một chiến lược quốc gia hoặc kế hoạch dài hạn về phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện; bảo hiểm y tế chưa chi trả dịch vụ này dẫn đến khó khăn trong vận hành và mở rộng dịch vụ.
Bên cạnh đó, chưa có sự điều phối tổng thể về hệ thống cấp cứu ngoại viện trên toàn quốc; việc điều phối triển khai hoạt động rời rạc, phân mảnh theo từng ngành (y tế, công an, phòng cháy chữa cháy...), từng địa phương.
Tổng đài cấp cứu 115 chưa có khả năng phân loại tình trạng bệnh ngay từ khi tiếp nhận cuộc gọi, thông tin người gọi chưa được ghi nhận, xử lý. Độ bao phủ dịch vụ còn thấp, nhiều tỉnh, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, người dân hầu như không được tiếp cận dịch vụ cấp cứu ngoại viện đúng chuẩn.
Các Trung tâm 115 chỉ đáp ứng được khoảng 10-20% nhu cầu cấp cứu, khoảng 80-90% trường hợp còn lại là do người dân tự đến đi bệnh viện hoặc có các đội cấp cứu tình nguyện tự phát.
Nguồn nhân lực triển khai hoạt động cấp cứu ngoại viện tại các đơn vị cấp cứu và tại cộng đồng còn thiếu và chưa được đào tạo thường xuyên, liên tục.
Khoảng 80% nhân viên hiện chưa được đào tạo chuẩn hóa và chưa có hệ thống chứng chỉ hoặc chuẩn đào tạo riêng cho nhân viên cấp cứu ngoại viện…
Ngoài ra, số lượng và chất lượng trang thiết bị cấp cứu chưa được đầu tư đáp ứng nhu cầu triển khai. Thiếu quy chuẩn quy định cụ thể về số lượng, trang bị cho kíp cấp cứu. Chỉ có khoảng 60% số huyện (trước sáp nhập đơn vị hành chính) có xe cứu thương; khoảng 70% xe cứu thương không đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu, không đồng bộ.
Tỷ lệ xe cấp cứu/100.000 dân của Việt Nam là 0,2, trong khi Singapore là 0,8, Nhật Bản và Đài Loan là 2-3, Hàn Quốc là 2.
Về chất lượng dịch vụ, một số nghiên cứu cho thấy thời gian phản ứng trung bình cấp cứu ngoại viện cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế là ≤ 8 phút (đô thị), ≤ 15 phút (nông thôn). Tuy nhiên, tỷ lệ sống sót sau cấp cứu chưa bảo đảm so với tiêu chuẩn quốc tế (65%).

Bộ Y tế xây dựng Đề án phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện 2025-2030, với các mục tiêu cụ thể đến năm 2030. Cụ thể, 100% tỉnh/thành kiện toàn hệ thống cấp cứu ngoại viện, 100% phương tiện cấp cứu đạt chuẩn, ít nhất 2 triệu người dân được đào tạo sơ cấp cứu…
Đề xuất một đầu số cấp cứu quốc gia thay cho 113, 114, 115
Vi thế, Bộ Y tế đã xây dựng Đề án phát triển hệ thống cấp cứu ngoại viện 2025-2030, với các mục tiêu cụ thể đến năm 2030. Cụ thể, 100% tỉnh/thành kiện toàn hệ thống cấp cứu ngoại viện, 100% phương tiện cấp cứu đạt chuẩn, ít nhất 2 triệu người dân được đào tạo sơ cấp cứu…
Đáng chú ý, đề án có đề xuất xây dựng Tổng đài quốc gia cấp cứu ngoại viện với một đầu số duy nhất, tích hợp các đầu số điện thoại khẩn cấp duy nhất (113, 114,115). Tổng đài này vận hành 24/7, kết nối trực tuyến với các lực lượng cấp cứu y tế, phòng cháy chữa cháy, cảnh sát giao thông, cứu hộ cứu nạn...
Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để định vị, phân loại cuộc gọi theo mức độ khẩn cấp; lưu trữ và phân tích dữ liệu để phục vụ đánh giá, dự báo nhu cầu cấp cứu theo vùng.
Đề án cũng đề cập đến công tác đào tạo nhân lực cấp cứu ngoại viện qua việc thành lập các Trung tâm đào tạo cấp cứu ngoại viện vùng, khu vực; Mở mã ngành đào tạo cấp cứu viên ngoại viện; Chuẩn hóa và thiết lập triển khai Chương trình đào tạo cấp cứu ngoại viện trình độ cao đẳng (3 năm); trình độ đại học (4 năm); trình độ sau đại học (chuyên khoa, chuyên khoa sâu); chương trình đào tạo ngắn hạn, đào tạo liên tục; đào tạo cho cộng đồng; Hoàn thiện các quy định liên quan cấp chứng chỉ hành nghề cấp cứu quốc gia cho cấp cứu ngoại viện.
Tổ chức đào tạo tại cộng đồng, trong trường học; Mở rộng liên kết quốc tế trong đào tạo, hợp tác, trao đổi nhân lực cấp cứu ngoại viện.
Cùng đó, đề án cũng đề cập đến việc dầu tư, xây dựng các trung tâm điều phối cấp cứu cấp tỉnh và trạm cấp cứu vệ tinh tại cấp cơ sở; Đầu tư, xây dựng các mô hình cấp cứu đặc thù như: Cấp cứu đường sông và ven biển, trên biển, cấp cứu vùng núi và vùng cao.
Trang bị các xe cấp cứu chuyên dụng với các chủng loại khác nhau, phù hợp với mục đích sử dụng;
Phát triển các mô hình xe cấp cứu đa dạng: Xe cứu thương thông thường, mô tô cấp cứu, xe cứu thương địa hình, xuồng cấp cứu, tàu cao tốc…
Đầu tư, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin; hệ thống Telemedicine, cấp cứu ngoại viện.
Cũng tại dự thảo này, Bộ Y tế đề cập đến việc xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế chính sách về cấp cứu ngoại viện, trong đó có xây dựng các văn bản quy định liên quan đến cấp cứu ngoại viện liên quan đến vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp; quy trình chuyên môn; quy định về tổ chức, hoạt động; cơ chế phối hợp liên ngành; xử lý vi phạm; hướng dẫn chuyên môn…

Cấp cứu ngoại viện hiệu quả giúp cứu sống người bệnh trong “thời gian vàng” là thời điểm quyết định sự sống còn...
Xây dựng cơ chế điều phối, phối hợp liên ngành trong cấp cứu ngoại viện; Xây dựng cơ chế tài chính cho hoạt động cấp cứu ngoại viện, có sự kết hợp giữa ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế và các nguồn huy động hợp pháp khác; Nghiên cứu và áp dụng các mô hình chi trả dịch vụ cấp cứu ngoại viện phù hợp.
Bộ Y tế cho hay, lộ trình triển khai đề án gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (năm 2025-2027): Thí điểm tại 6 địa phương Bắc Ninh, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Khánh Hòa, An Giang;
- Giai đoạn 2 (2027-2030): Mở rộng triển khai đề án trên phạm vi toàn quốc...