BT thành công phải hạn chế tối thiểu khuyết tật của dự án PPP, không gây bức xúc xã hội
'Một dự án BT thành công không chỉ là có thêm một công trình mà phải là một dự án tận dụng tối đa ưu điểm, hạn chế tối thiểu các khuyết tật của dự án PPP, không gây bức xúc cho xã hội và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.' – Đại biểu Quốc hội Hoàng Quang Hàm cho biết tại buổi thảo luận tại hội trường Quốc hội về dự án Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) sáng nay (19/11).
Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) phát biểu: “Thời gian qua, các dự án PPP đã huy động được hơn 1.600.000 tỷ đồng, đóng góp lớn cho phát triển của đất nước. Tuy nhiên, thực hiện các dự án BOT có dấu hiệu chững lại, báo cáo của Bộ Giao thông vận tải nêu từ năm 2016 đến nay chưa triển khai thêm được dự án nào, đồng thời phải dừng thực hiện dự án BOT trên các tuyến đường. Bên cạnh đó, nhiều dự án BOT giao thông người dân bức xúc, có dự án phải dừng thu phí, chưa biết bao giờ thực hiện thu, trong khi phát sinh thêm tiền lãi rất lớn, sau này người dân phải trả qua tiền phí. Việc dừng thu phí phá vỡ phương án tài chính, gây hệ lụy cho nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng. Nhiều dự án BT thanh toán bằng quỹ đất bất hợp lý, nhà đầu tư thu lợi quá lớn gây bức xúc trong xã hội, thiệt hại cho nhà nước . Thực trạng này cho thấy chính sách bởi dự án BT đang có vấn đề không hoàn thiện, khó kêu gọi đầu tư hoặc tiếp tục gây thiệt hại cho nhà nước. Vì vậy, tôi thống nhất ban hành luật nhưng xây dựng luật phải xuất phát từ bản chất của dự án BT và thực tiễn của Việt Nam.
“Bản chất của dự án BT là nhà đầu tư bỏ vốn ra với kỳ vọng là thu được lợi nhuận, nguồn tiền để trả nhà đầu tư là tiền tài sản của nhà nước hoặc tiền phí người dân nộp chứ không có nguồn tiền nào khác. Bản chất này đặt ra yêu cầu luật phải quy định để nhà đầu tư thu lợi nhuận phù hợp nhưng số tiền tài sản nhà nước bỏ ra hoặc người dân phải nộp là hợp lý, tối thiểu nhất.” – Đại biểu Hoàng Quang Hàm nhấn mạnh.
Đại biểu Hoàng Quang Hàm đưa ra dẫn chứng, từ khi gia nhập WTO Việt Nam được 69 quốc gia công nhận và kinh tế thị trường nhưng một số lĩnh vực thị trường chưa hoàn hảo. Vì vậy, phải có giải pháp được các quan hệ kinh tế hướng tới thị trường, đ ây là thực tế. Như nhiều quốc gia khi cổ phần hóa không bắt buộc định giá lại chính xác doanh nghiệp mà ước tính trên sổ sách, còn giá trị thực do thị trường quyết định qua đấu giá, đấu thầu .
“Ở Việt Nam nếu làm như vậy rủi ro thất thoát rất lớn nên phải định giá tính toán lại giá trị doanh nghiệp theo thị trường, sau đó mới cổ phần hóa. Thực tế này yêu cầu luật phải xử lý đ ược tính chưa hoàn hảo của thị trường để sao cho nhà nước không bị thất thoát, người dân không phải nộp quá số tiền hợp lý phải nộp, nhà đầu tư có năng lực sẽ có lợi nhuận phù hợp. Mấu chốt là nhà nước phải kiểm soát được giá tối đa trả cho nhà đầu tư làm cơ sở xác định giá trần, từ đó chọn nhà thầu đạt tiêu chuẩn giá thấp nhất không vượt giá trần, đồng thời nhà nước phải kiểm soát chất lượng công trình t ương xứng với số tiền nhà đầu tư được hưởng.” – Ông Hoàng Quang Hàm cho biết.
Cũng theo đại biểu Hoàng Quang Hàm, việc thực hiện các dự án PPP thời gian qua bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém nhưng hình thức dự án PPP khác nhau có yếu kém khác nhau, nhiều bất cập đã được khắc phục bằng các văn bản dưới luật. Vì vậy, ngoài quy định chung luật phải có quy định riêng phù hợp với từng hình thức dự án, BOT phải có điểm khác, BT thanh toán bằng quỹ đất, phải có điểm khác và phải luật hóa các quy định phù hợp với các văn bản dưới luật đã ban hành.
“Một dự án BT thành công không chỉ là có thêm một công trình mà phải là một dự án tận dụng tối đa ưu điểm, hạn chế tối thiểu các khuyết tật của dự án PPP, không gây bức xúc cho xã hội và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Dự thảo luật hiện nay còn chung chung, nhiều điều khoản giao cho Chính phủ quy định , nhìn nhận thẳng thắn mà không bằng các quy định dưới luật đang có.” – Đại biểu Hoàng Quang Hàm cho biết.
V ì vậy, theo đại biểu Hoàng Quang Hàm cần rà soát luật hóa được các vấn đề chính sau: “Thứ nhất, luật phải quy định dự toán được chi phí cần bỏ ra để có công tr ình. Dự toán xây dựng trên cơ sở các định mức đơn giá do nhà nước quy định , chưa quy định hoặc quy định bất cập th ì xây dựng duyệt riêng cho phù hợp.
Dự toán được duyệt sẽ là giá tối đa để xét thầu hoặc loại bỏ nhà thầu trúng thầu hưởng lợi vượt quá cao so với mức hợp l ý, gây thất thoát tiền, tài sản của nhà nước hoặc thu quá mức của người dân. Giải pháp này để khắc phục tính chưa hoàn hảo của thị trường giống như cổ phần hóa phải định giá lại doanh nghiệp.
Thứ hai, luật phải quy định được khung xây dựng phương án tài chính để dự tính sát nguồn thu và có cơ chế chia sẻ rủi ro phù hợp. Ví dụ như cách xác định , thời điểm xác định, các quy định của luật khác, áp dụng để xác định giá trị đất, tài sản công d ùng thanh toán cho nhà đầu tư hay nguyên tắc xác định mức thu của người sử dụng công tr ình dịch vụ mà thực chất là thu của c ơ quan nhà nước và người dân .
Đối với cơ chế chia sẻ rủi ro, quy định đưa ra trong dự thảo luật là bất hợp lý, vì cho phép doanh thu thực tế cao hơn hoặc thấp hơn phương án tài chính trong hợp đồng thì được tăng, giảm mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ hoặc rút ngắn, kéo dài thời gian hợp đồng, đối với các công trình trọng điểm Nhà nước còn bù phần hụt thu hoặc chia thêm phần tăng thu. Quy định như vậy sẽ vô hiệu hóa toàn bộ kết quả đấu thầu, vì giá trúng thầu thực chất là mức phí, thời gian thu bị điều chỉnh theo thực tế, bản chất là chuyển công trình đấu thầu thành chỉ định thầu và tạo lỗ hổng cho các nhà đầu tư bỏ giá thấp để trúng thầu, quá trình thực hiện sẽ điều chỉnh theo thực tế và luôn có lợi nhuận, không đạt mục tiêu của đấu thầu là cạnh tranh, tìm nhà thầu phù hợp, vi phạm nguyên tắc thị trường là “lời ăn, lỗ chịu”.
Hiện nay, các nhà đầu tư lo ngại khi bỏ vốn là do chính sách nhà nước thay đổi hoặc do cơ quan nhà nước ký hợp đồng không đúng quy định của pháp luật, không hợp lý, dẫn đến người dân, dư luận phản ứng, phải dừng thu, phá vỡ phương án tài chính, thiệt hại cho nhà đầu tư.
Thực tế đã có nhiều dự án BOT giao thông thực hiện trên tuyến đường hiện hữu hoặc trên tuyến đường độc đạo gặp phản ứng của người dân phải dừng thu. Có dự án nhà đầu tư bỏ tiền làm một chiếc cầu theo hình thức BOT thu phí phương tiện qua cầu để hoàn vốn, khi lập, duyệt phương án tài chính thì cam kết các phương tiện không được đi qua cầu cũ, trước mắt chưa có thêm cầu mới và chưa mở nút giao của đường cao tốc gần cầu BOT.
Thực tế, khi cầu BOT hoàn thành và thu phí người dân phản đối nên phải cho xe ô tô dưới chín chỗ qua cầu cũ, khánh thành thêm cầu mới, mở nút giao của đường cao tốc, dẫn đến lưu lượng xe qua cầu BOT giảm lớn, phá vỡ phương án tài chính. Đây là vấn đề luật phải xử lý để đảm bảo đúng cơ chế đấu thầu và nguyên tắc thị trường. Theo đó, nhà nước phải bồi hoàn cho nhà đầu tư khi thay đổi chính sách hoặc do cơ quan của mình vi phạm, không phải lỗi của nhà đầu tư. Đồng thời, trường hợp nhà đầu tư sai sót, vi phạm hoặc chi phối trái pháp luật để hưởng lợi thì phải có cơ chế thay đổi hợp đồng, bảo đảm lợi ích của nhà nước và người dân.
Thứ ba, ngoài cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cần có cơ chế thanh tra, kiểm tra độc lập từ bên ngoài của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ khâu dự toán, đến quyết toán để xử lý vi phạm và phân chia chính xác lợi ích chi phí của nhà đầu tư, nhà nước, người dân.
Thứ tư, luật hóa các quy định đã được kiểm nghiệm thực tế, quy định rõ trong luật các đặc thù cho từng hình thức dự án PPP, như luật hóa các quy định trong Nghị định số 63 dự án BT chỉ được lựa chọn đầu tư khi có thiết kế dự toán được duyệt quỹ đất dự kiến thanh toán cho nhà đầu tư phải được định rõ ngay giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi... Luật hóa các quy định phù hợp của Nghị định số 437 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án BOT.
Thứ năm, rà soát lại các quy định trong dự thảo luật, nếu cần quy định khác với luật khác thì ghi rõ việc sửa đổi, bổ sung, lưu ý có những nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước đầu tư công không thể dùng luật này để thay đổi. Bỏ khoản 2 Điều 3 trường hợp quy định khác nhau giữa luật này và các luật khác thì áp dụng theo luật này mà cần sửa luật nào thì ghi rõ sửa đổi, bổ sung trong luật cho phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.”