Bức tranh trái ngược của các nước châu Âu sau 20 năm gia nhập EU
20 năm gia nhập EU của 10 nước châu Âu cho thấy những bức tranh trái ngược. Quá trình hội nhập này khiến dân số của các nước vùng Baltic suy giảm mạnh.
Theo truyền thông Latvia, trong quý đầu tiên của năm 2024, số người chết ở Latvia cao gấp đôi số người sinh ra. Số lượng các cuộc kết hôn giảm 28,9%. Những con số này không có gì đáng ngạc nhiên khi xét tới những vấn đề kinh tế của Latvia: Số lượng việc làm đang giảm, giá thực phẩm, nhà ở và dịch vụ đang leo thang. Vsevolod Shimov, cố vấn của Chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu vùng Baltic của Nga, đã phân tích tình hình các nước Baltic liên quan đến vấn đề này sau 20 năm gia nhập EU.
Kết quả khác nhau của quá trình hội nhập châu Âu
Tháng 5 năm nay đánh dấu 20 năm kể từ sự mở rộng lớn nhất của EU sang phía Đông. Năm 2004, EU đã chính thức kết nạp thêm 10 thành viên mới là CH Síp, CH Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Malta, Ba Lan, Slovakia, Slovenia. Trong số 10 quốc gia này, những nước vùng Baltic đã trở thành thành viên EU với sự hưng phấn và kỳ vọng lạc quan của đông đảo người dân. Hai thập kỷ sau, rõ ràng là thực tế khác xa với những hy vọng "màu hồng" đó.
Có lẽ sự hội nhập châu Âu thành công nhất là với Slovenia và CH Séc. Hai quốc gia nhỏ nhưng công nghiệp hóa này, với nền kinh tế có lịch sử gắn bó chặt chẽ với Áo và Đức, đã trải qua một giai đoạn chuyển tiếp khá suôn sẻ sau sự sụp đổ của Liên Xô. Họ hội nhập nhanh vào nền kinh tế châu Âu nhưng vẫn duy trì được thế mạnh riêng.
Ba Lan cũng hội nhập tốt so với bối cảnh chung dựa vào nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ theo tiêu chuẩn EU. Do đó, nước này thu hút được một số lượng lớn các cơ sở sản xuất ở châu Âu. Ba Lan đã trở thành một xưởng lắp ráp của EU. Một điều rõ ràng là “phép màu Ba Lan” là nhờ những khoản trợ cấp hào phóng của EU.
Dân số vùng Baltic giảm mạnh
Trong bối cảnh đó, thành quả của các quốc gia vùng Baltic có vẻ không mấy ấn tượng. Tuy nhiên, chính quyền ở các nước này đang tự tin đưa ra một bức tranh tốt về mọi việc.
Vấn đề trong quá trình hội nhập châu Âu đối với các nước vùng Baltic là họ có sự chuẩn bị hạn chế hơn nhiều cho quá trình này so với các nước khác. Trong lịch sử, các quốc gia vùng Baltic ít kết nối với châu Âu hơn Ba Lan. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của các quốc gia này được xây dựng từ thời Đế chế Nga và Liên Xô, tập trung chủ yếu vào kết nối với phương Đông.
Trong khi đó, họ không có một ngành công nghiệp cạnh tranh phát triển nào có thể được các nhà đầu tư châu Âu quan tâm, như ở CH Séc hay Slovenia, và cũng không có một lượng lớn lao động giá rẻ có thể được sử dụng cho một cuộc công nghiệp hóa mới, như ở Ba Lan. Đồng thời, các nước vùng Baltic đã ngưng sản xuất và hạn chế hợp tác trong khuôn khổ Liên Xô cũ, từ những năm 1990, vì cho rằng điều này kéo họ trở lại “quá khứ thời Xô Viết”.
Suy giảm kinh tế mạnh đã dẫn đến tình trạng di cư lao động, tình trạng này càng gia tăng sau khi gia nhập EU. Kết quả là, năm 1991, dân số Litva là 3,7 triệu người, năm 2004 (năm gia nhập EU) - 3,4 triệu, thì đến năm 2023 chỉ còn 2,8 triệu (giảm 25%). Cùng giai đoạn, Latvia là 2,7 - 2,3 và 1,8 triệu (giảm 33%); Estonia: 1,7 - 1,37 và 1,36 triệu (giảm 20%).
Ở Estonia và Latvia, nơi có đông đảo người Nga thiểu số sinh sống, tỷ lệ này giảm nhanh hơn đáng kể. Nhưng cả chính quyền ở các nước Baltic và nhiều nhà quan sát bên ngoài đều không coi những gì đang xảy ra là một thảm họa. Hơn nữa, có những người ủng hộ “mô hình Baltic” này.
Điều đó là do quy mô và dân số nhỏ hóa ra lại là một lợi thế cho các nước vùng Baltic. Sau khi loại bỏ ngành công nghiệp của Liên Xô và dân số “dư thừa”, các nước vùng Baltic được tiếp cận với các khoản trợ cấp của EU và nguồn vốn tương đối nhỏ đó cũng đủ để duy trì vẻ ngoài của một “trật tự châu Âu” ở vùng Baltic.