Bước chuyển từ 'đề ra phương hướng' sang 'quản trị theo kết quả'
Dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV đã thể hiện bước chuyển từ 'đề ra phương hướng' sang 'quản trị theo kết quả'.
Dự thảo Chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng (Dự thảo Chương trình hành động) đề ra những nhiệm vụ, đề án, công trình, dự án quan trọng, có tính chiến lược trong giai đoạn 2026 - 2030; phân công trách nhiệm cụ thể, rõ nguồn lực và tiến độ cùng các điều kiện thực hiện.

PGS.TS. Ngô Trí Long, Chuyên gia Kinh tế
4 điểm mang tính chất đột phá
Đột phá thứ nhất về thể chế, hướng đến “kinh tế của tương lai”. Lần đầu tiên dự thảo đề cập khung pháp lý cho tài sản số, dữ liệu mở, trí tuệ nhân tạo (AI), sandbox đổi mới sáng tạo - chuyển từ “khuyến khích” sang “thiết kế thể chế chủ động”. Cách tiếp cận “hậu kiểm - rủi ro” thay vì “tiền kiểm - thủ tục” phản ánh tinh thần thị trường hóa, giảm chi phí tuân thủ, tạo không gian cho doanh nghiệp phát triển. Mô hình “lãnh đạo công - quản trị tư” và “đầu tư công - quản lý tư” là tư duy quản trị công hiện đại, dựa trên kết quả và trách nhiệm hợp đồng, giúp dự án đối tác công tư (PPP) thực chất hơn.
Đột phá về cấu trúc ngành và không gian phát triển. Dự thảo nhấn mạnh công nghiệp hóa dựa trên công nghệ cao và đổi mới sáng tạo. Dự thảo xác định tỷ trọng chế biến, chế tạo đạt 28% GDP gắn liền với định hướng phát triển các ngành chiến lược gồm điện tử, pin, năng lượng mới, vật liệu xanh, dược y sinh, logistics - thiết bị vận tải thông minh. Đồng thời định hướng hình thành đặc khu công nghệ, trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do thể hiện tư duy thể chế cạnh tranh quốc tế, mở ra môi trường “sandbox vùng” để thử nghiệm chính sách vượt trội.
Đột phá về hạ tầng - năng lượng. Dự thảo đề cập mạnh đến điện hạt nhân thế hệ mới (SMR), điện gió ngoài khơi, hạ tầng số và trung tâm dữ liệu lớn, coi đó là “xương sống” bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Đây là thay đổi căn bản trong tư duy phát triển năng lượng.
Đáng chú ý là đột phá nguồn nhân lực - giáo dục. Chủ trương tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai, AI và STEAM trong chương trình phổ thông, phát triển một số cơ sở giáo dục đại học trở thành các trung tâm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia ngang tầm các nước tiên tiến đánh dấu chuyển hướng chiến lược từ “dạy cái đã có” sang “chuẩn bị năng lực cho tương lai”. Những nội dung này tạo cơ sở để Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng dựa trên năng suất, đổi mới và sáng tạo, thay vì phụ thuộc vào đầu tư và lao động giá rẻ.
Dự thảo Chương trình hành động đã đưa ra những mục tiêu với các chỉ tiêu rất cụ thể: tăng trưởng GDP trên 10% trong giai đoạn 2026 - 2030; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng trên 55%; thu nhập bình quân đầu người 8.500 USD…Đây là những mục tiêu lớn, đòi hỏi phải nỗ lực, quyết tâm rất cao để đạt được.
Muốn đạt được các mục tiêu, 6 hướng hành động cần ưu tiên. Thứ nhất, củng cố nền tảng thể chế, bảo đảm nguyên tắc quản trị theo kết quả và trách nhiệm cá nhân. Tất cả các mục tiêu định lượng cần gắn với chỉ tiêu cải cách cụ thể: tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến, số thủ tục được cắt giảm, mức độ dữ liệu mở…
Thứ hai, huy động và sử dụng hiệu quả vốn cho tăng trưởng 10%. Phát triển thị trường vốn dài hạn; triển khai trái phiếu hạ tầng quốc gia; kiểm soát chặt chi tiêu công, đặc biệt là tình trạng đầu tư dàn trải. Mọi dự án đầu tư công phải công bố suất đầu tư chuẩn, IRR (tỷ suất sinh lợi nội bộ) xã hội và chịu trách nhiệm giải trình.
Thứ ba, phát triển cụm công nghiệp, đô thị, logistics liên vùng. Thành lập cơ quan điều phối vùng có ngân sách riêng cho dự án liên vùng; triển khai đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam (giai đoạn 1), cảng trung chuyển quốc tế, trung tâm logistics kết nối sân bay - cảng biển; áp dụng mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD) để khai thác không gian ngầm và thu hồi giá trị đất.

Nút giao thông hiện đại kết nối Khu công nghiệp Vân Trung với khu vực đô thị tỉnh Bắc Ninh. (Ảnh: ĐẶNG GIANG)
Thứ 4 là đột phá năng lượng sạch và chuyển dịch xanh. Xây dựng cơ chế hợp đồng dài hạn cho điện gió, điện mặt trời; triển khai thị trường tín chỉ carbon, liên kết khu vực; gắn ưu đãi thuế - tín dụng với điểm số ESG của doanh nghiệp.
Thứ năm, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phải thực hiện nghiêm lộ trình tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai; phát triển 3 đại học nghiên cứu quốc gia gắn R&D với doanh nghiệp; khuyến khích du học “hồi hương” để tăng năng lực đổi mới trong nước.
Thứ sáu, quản trị công minh bạch, số hóa toàn diện. Thiết lập nền tảng dữ liệu quốc gia theo dõi tiến độ thực thi; công khai ngân sách, dự án và kết quả cải cách; đánh giá cán bộ theo sản phẩm đầu ra; thúc đẩy chính phủ số - xã hội số - công dân số.
Đúng hướng về tư duy, cần “hóa rắn” cơ chế vận hành
Dự thảo thể hiện bước chuyển từ “đề ra phương hướng” sang “quản trị theo kết quả”. Mục tiêu định lượng rõ (tăng năng suất, TFP, cơ cấu chế biến, chế tạo, kinh tế số), kèm phân công, giám sát, báo cáo. Đây là tiếp cận đúng với bối cảnh vĩ mô năm 2025: GDP 9 tháng tăng 7,85%, cho thấy nền kinh tế có dư địa hấp thụ cải cách; giải ngân đầu tư công tăng tốc; môi trường sản xuất khởi sắc khi PMI tháng 10/2025 đạt 54,5 điểm – mức cải thiện mạnh nhất từ 7/2024; FDI thực hiện 9 tháng 18,8 tỷ USD, cao nhất 5 năm.
Những “điểm sáng” này ủng hộ giả định trọng tâm của Dự thảo: cải cách thể chế, đổi mới công nghệ có thể kéo dài động lực tăng trưởng theo chiều sâu. Tuy nhiên, để biến tham vọng thành kết quả đo được, tôi cho rằng, Dự thảo cần “hóa rắn” cơ chế vận hành ở ba tầng: chuẩn dữ liệu, minh bạch theo thời gian thực; KPI ràng buộc trách nhiệm bộ/ngành/địa phương và cơ chế thử nghiệm mở rộng (sandbox thể chế) với điều kiện thoát ưu đãi khi không đạt chuẩn.
5 khoảng trống chính sách cần bổ sung
Thứ nhất, bản đồ chỉ tiêu và trách nhiệm giải trình. Các mục tiêu đề ra như TFP >55%, kinh tế số 30% GDP, chế biến, chế tạo 28% GDP sẽ khó kiểm chứng nếu thiếu bản đồ chỉ tiêu về định nghĩa thống kê, nguồn dữ liệu, tần suất công bố, cơ quan chủ trì, phối hợp, thang đánh giá và cơ chế “clawback” (thu hồi ưu đãi/thưởng) khi không đạt do chủ quan.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Dashboard (bảng điều khiển) công khai theo quý giúp ổn định kỳ vọng và giảm rủi ro thực thi. Đồng thời, việc lồng ghép mục tiêu tăng năng suất lao động (8–8,5%/năm) vào thẻ điểm của địa phương sẽ ép tiến độ cải cách đất đai, thủ tục, hạ tầng số gắn với đầu tư tư nhân/FDI.
Thứ hai, Sandbox thể chế đa lớp cho đặc khu, trung tâm tài chính, “cổng đầu tư một cửa”. Dự thảo đặt tham vọng hình thành hệ sinh thái ưu đãi, nhưng thiếu KPI đầu ra để đóng, mở ưu đãi theo chu kỳ 24–36 tháng. Do đó nên thiết kế 3 lớp ưu đãi (thuế, đất, thủ tục) tương ứng 3 nhóm KPI: Năng suất và chất lương; đổi mới và liên kết; thủ tục và minh bạch.
Thứ ba, chuẩn dữ liệu quốc gia và API mở nút thắt “thiếu dữ liệu, chậm đồng bộ” khiến phân cấp dễ rủi ro. Vì vậy, cần bắt buộc chuẩn hóa dữ liệu và API mở cho 5 lĩnh vực rủi ro cao gồm đất đai, xây dựng, năng lượng, môi trường, đầu tư. Điều này yêu cầu tất cả hồ sơ phải có dấu vết kiểm toán thời gian thực để cơ quan giám sát, nhà nghiên cứu, báo chí và người dân cùng kiểm chứng. Việc công bố dữ liệu giá, phí, đấu thầu giúp kiềm chế lạm phát kỳ vọng, củng cố niềm tin và giảm chi phí vốn cho đổi mới công nghệ.
Thứ tư, liên thông công nghiệp, năng lượng, logistics bằng lịch mốc bắt buộc. Mục tiêu nâng tỷ trọng chế biến, chế tạo, tăng xuất khẩu công nghệ đòi hỏi điện ổn định, logistics cạnh tranh, chuỗi cung ứng chủ động. Tôi đề nghị “khóa lịch” các mốc đấu giá điện gió ngoài khơi, lộ trình điện hạt nhân mô đun nhỏ (SMR) ở góc độ an toàn. chuỗi nhiên liệu, xử lý chất thải; tuyến đường sắt tốc độ cao, cảng trung chuyển, ICD vùng. Bảng điều hành cần có KPI chi phí logistics/GDP, thời gian thông quan và tiến độ EPC/COD theo từng dự án trọng điểm, gắn trách nhiệm đơn vị chủ trì.
Thứ năm, thị trường carbon đi kèm quỹ chuyển đổi xanh cho SME. Để giảm rủi ro CBAM/EU ETS, cần lộ trình MRV bắt buộc theo ngành, vận hành thị trường carbon gắn hạn ngạch, giao dịch, bù trừ; Quỹ chuyển đổi xanh hỗ trợ SME nâng cấp công nghệ tiết kiệm năng lượng. Đồng thời, liên thông tín chỉ nội địa với chuẩn quốc tế, tránh “thuế ẩn” khi xuất khẩu. Việc đo, báo cáo, xác minh phát thải phải tích hợp ngay vào chuỗi cung ứng các ngành xuất khẩu chủ lực.

Ảnh minh họa.
Để người dân dễ giám sát, cần khuyến nghị công bố định kỳ tăng trưởng GDP theo quý và đóng góp của chế biến, chế tạo trên dịch vụ tri thức; giải thích ngắn dưới dạng đồ thị tương tác. PMI sản xuất hằng tháng chỉ báo sớm về đơn hàng, sản lượng, việc làm. FDI đăng ký và giải ngân, nhất là dự án bán dẫn, dữ liệu, năng lượng sạch; mục tiêu giải ngân/đăng ký 70 đến 75%. Giải ngân đầu tư công theo dự án trọng điểm, thể hiện mốc phê duyệt EPC - COD. CPI và lạm phát cơ bản, kèm giỏ hàng rủi ro cao (năng lượng, lương thực, nhà ở). Đối với thị trường carbon, số cơ sở phát thải được cấp hạn ngạch, khối lượng giao dịch, giá carbon bình quân, cùng với đó tỷ lệ doanh nghiệp có báo cáo MRV đạt chuẩn.
Về gói khuyến nghị ngắn gọn, khả thi, đo được: Cần chuẩn hóa “hợp đồng trách nhiệm” theo KPI. Mỗi mục tiêu quốc gia (TFP, năng suất, kinh tế số, chế biến, chế tạo) gắn KPI bắt buộc tới bộ,ngành, địa phương; thẻ điểm quý công bố công khai; giải trình chênh lệch và kế hoạch khắc phục. Đồng thời kích hoạt clawback với ưu đãi/thưởng nếu không đạt do yếu tố chủ quan; ngược lại, thưởng vượt khung cho tập thể/địa phương vượt mục tiêu. Cổng đầu tư một cửa với SLA ràng buộc và hậu kiểm thông minh. Cùng với đó, thiết lập SLA cho từng bước. Nếu quá hạn, tự động phê duyệt có điều kiện và chuyển sang hậu kiểm với cơ chế bảo lãnh rủi ro.
Mục tiêu đến 2027, giảm 50% thời gian và 30% chi phí tuân thủ cho dự án chuẩn. Sandbox thể chế đa lớp 24–36 tháng/lượt; đánh giá theo KPI đầu ra (TFP, lương kỹ năng cao, chi R&D/doanh thu, tỷ lệ thủ tục trực tuyến end-to-end, thời gian cấp phép). Không đạt KPI cần thu hẹp/thu hồi ưu đãi; đạt vượt cần mở rộng không gian thử nghiệm. Lộ trình năng lượng và logistics tích hợp, công bố lịch mốc cho điện gió ngoài khơi, SMR, đường sắt tốc độ cao, cảng trung chuyển; tích hợp đấu giá công suất và PPP quản lý tư để bảo đảm hiệu quả vận hành.
Đối với thị trường carbon và quỹ chuyển đổi xanh, MRV bắt buộc. Đồng thời, thử nghiệm giao dịch hạn ngạch/tín chỉ ở các “cụm công nghiệp xanh” trước khi nhân rộng và tài trợ dự án tiết kiệm năng lượng cho SME. Liên thông nhân lực, đại học, doanh nghiệp công nghệ áp dụng voucher đào tạo đồng tài trợ Nhà nước, doanh nghiệp, người học cho ba nhóm kỹ năng số, ngoại ngữ, vận hành sản xuất tinh gọn; đánh giá theo việc làm trên thu nhập sau tốt nghiệp.
Về rủi ro và đối sách: Rủi ro bên ngoài triển vọng tăng trưởng chịu tác động thuế – thương mại; WB/IMF cảnh báo kịch bản chậm lại 6,5–6,8% nếu xấu đi. Đối sách phối hợp chính sách linh hoạt, bảo đảm thanh khoản cho khu vực chế biến – xuất khẩu, ưu tiên tín dụng “xanh, đổi mới”, đẩy nhanh đầu tư công hạ tầng. Rủi ro lạm phát CPI/CORE đang trong vùng kiểm soát, song PMI cho thấy áp lực giá đầu vào tăng. Đối sách cần minh bạch dữ liệu giá, phí, đấu thầu, dùng công cụ truyền thông để “neo” kỳ vọng; nhắm trúng nhóm hàng rủi ro cao. Rủi ro thực thi phân cấp thiếu dữ liệu và hậu kiểm dễ phát sinh lỗi. Đối sách hồ sơ số có audit trail thời gian thực; đánh giá peer-review liên tỉnh; công bố kết quả giám sát trên dashboard mở.
Tóm lại, Dự thảo đã chọn đúng “bộ máy tăng trưởng” cho giai đoạn tới: Thể chế thị trường hiện đại, đổi mới sáng tạo, hạ tầng số, năng lượng xanh. Việc hóa rắn mục tiêu bằng KPI ràng buộc, dữ liệu mở, SLA thủ tục, sandbox thể chế, clawback sẽ tạo vòng lặp đặt mục tiêu từ đo lường, công khai đến điều chỉnh, biến các tín hiệu hiện tại thành xu hướng bền vững của một nền kinh tế dựa trên tri thức, kỷ luật và liêm chính.












