Bước tiến vượt bậc của giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số

Bước tiến vượt bậc của giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số là thành tựu rực rỡ của nền giáo dục cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua.

Giờ học của cô trò Trường PTDTBT TH&THCS Chế Cu Nha (xã Mù Căng Chải, tỉnh Lào Cai).

Giờ học của cô trò Trường PTDTBT TH&THCS Chế Cu Nha (xã Mù Căng Chải, tỉnh Lào Cai).

Bước tiến vượt bậc trong công bằng giáo dục

Nhiều năm gắn bó với giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc, nhà giáo Nguyễn Phú Tuấn (Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục) cho rằng, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nền giáo dục cách mạng đã khai trí, mở đường cho miền núi, vùng đồng bào của các dân tộc thiểu số vươn mình mạnh mẽ. Đó là thành tựu rực rỡ của nền giáo dục cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua.

Trong mạch kể của mình, ông Tuấn nhận định: Miền núi, vùng dân tộc thiểu số từ xa xưa đã là nơi kinh tế - xã hội chậm phát triển, trình độ dân trí thấp, ít có người được học hành. Mãi đến năm 1855 thời Vua Tự Đức mới đặt ngạch học sinh cho các tỉnh Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hưng Hòa, Quảng Yên... mỗi nơi được chọn từ 3 đến 6 người được trừ việc đi lính, tạp dịch, được cấp học bổng đi học.

Tuy Nhà Nguyễn đã có những chính sách tích cực khuyến khích việc học ở các địa phương xa xôi, nhưng cũng không đem lại hiệu quả. Tính từ khóa thi đầu tiên thời Nguyễn (1807) đến khoa thi cuối cùng (1919), cả nước có 5.252 người đỗ cử nhân, hương cống, nhưng không có người nào quê ở các tỉnh miền núi phía Bắc.

Thời Pháp thuộc, giáo dục với mục đích chủ yếu đào tạo những người làm thông ngôn, làm việc cho bộ máy cai trị của chính quyền Pháp. Các tỉnh miền núi, vùng dân tộc có những trường học nhỏ lẻ dành cho con những người giàu có, con nhà quyền quý.

Tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân Pháp dùng để cai trị chúng ta. Hơn 95% đồng bào ta mù chữ. Nhưng chỉ cần 3 tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ”.

Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành 3 sắc lệnh quan trọng về giáo dục: Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nhà Bình dân học vụ; sắc lệnh số 19/SL quy định hạn trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học với ít nhất 30 người; sắc lệnh số 20/SL cưỡng bách học chữ quốc ngữ và không mất tiền, hạn một năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.

Tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống nạn thất học. Người khẳng định: “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí” và Người khuyên và kêu gọi mọi người Việt Nam “Trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”; “những người biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ... Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, làng trên xóm dưới, miền ngược, miền xuôi sôi nổi phong trào “diệt giặc dốt”. Ban Bình dân học vụ của tỉnh, huyện được thành lập. Những tỉnh miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số xa xôi, khó khăn nhất như: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng... sôi nổi tham gia với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.

 Học sinh trường mầm non Hoa Lan (xã Mù Căng Chải, tỉnh Lào Cai).

Học sinh trường mầm non Hoa Lan (xã Mù Căng Chải, tỉnh Lào Cai).

Trường lớp đã phủ kín thôn, bản

Từ phong trào “diệt giặc dốt”, trải qua 80 năm, đến nay, mạng lưới trường lớp đã phủ kín thôn, bản, xã. Tất các xã bản vùng cao đều có lớp mầm non 5 tuổi, các xã có trường tiểu học, nhiều trường có các điểm trường, phân trường đến các bản xa xôi hẻo lánh tạo điều kiện cho trẻ đến trường.

Hệ thống các trường dân tộc nội trú hình thành, phát triển đã góp phần to lớn vào việc tạo nguồn cán bộ người dân tộc thiếu số cho các tỉnh, thực hiện bình đẳng trong giáo dục. Chất lượng giáo dục của các trường nội trú được nâng lên rõ rệt.

Trong 54 dân tộc ở Việt Nam, 30 dân tộc có chữ viết. Để đào tạo nguồn cán bộ người dân tộc thiếu số, vùng khó khăn, Chính phủ giao Bộ GD&ĐT thực hiện chỉ tiêu “cử tuyển” học sinh người dân tộc, vùng cao vào học đại học. Những năm qua hàng chục nghìn học sinh người dân tộc được đào tạo, góp phần giải quyết sự thiếu hụt cán bộ vùng cao.

Nhà nước tăng cường đầu tư, kết hợp công tác xã hội hóa giáo dục trong việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học. Đến nay, hệ thống trường học từ tỉnh đến cơ sở cơ bản đã được xây dựng khá khang trang, nhiều trường được xây dựng, trang bị hiện đại.

Đến nay tất cả các tỉnh miền núi, vùng dân tộc thiếu số đã cơ bản xóa xong nạn mù chữ, các tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học - xóa mù chữ; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học sơ sở; đang phấn đấu đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. Một số tỉnh miền núi xa xôi, tỷ lệ người dân tộc thiếu số cao, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhất đã đạt các chuẩn phổ cập.

Miền núi cao xa xôi, núi đá hiểm trở, nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, vùng biên ải phía Bắc Tổ quốc, từ bao đời do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, do những phong tục tập quán lạc hậu, níu kéo không thoát khỏi nghèo đói, mù chữ, bệnh tật.

Trong sự nghiệp chung của cả nước, 80 năm giáo dục cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng mở mang, soi sáng vùng biên cương Tổ quốc, dẫn dắt đồng bào các dân tộc thiểu số đi theo cách mạng, làm cách mạng, góp phần bảo vệ, xây dựng Tổ quốc, quê hương, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, góp phần thực hiện di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Lan Anh

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/buoc-tien-vuot-bac-cua-giao-duc-mien-nui-vung-dan-toc-thieu-so-post752731.html