Cả nước còn 38 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa xử lý triệt để

Theo Đoàn giám sát của Quốc hội, đến tháng 9/2025, cả nước vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để; mới có 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Tiếp tục Kỳ họp thứ 10, sáng 28/10, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành.

Chôn lấp chất thải trực tiếp tuy giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao

Ông Lê Quang Mạnh cho biết, công tác bảo vệ môi trường đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN.

Có 3/5 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025, gồm: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ che phủ rừng.

 Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát. (Ảnh: DUY LINH)

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát. (Ảnh: DUY LINH)

Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường được bảo đảm không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng qua các năm (năm 2024 đạt 1,12%). Nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho bảo vệ môi trường cũng có những chuyển biến tích cực.

Giai đoạn 2022-2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở, xử phạt 348 cơ sở với tổng số tiền 96,7 tỷ đồng. Các địa phương đã xử phạt 14.863 vụ với tổng số tiền 643 tỷ đồng. Kiểm toán nhà nước đã thực hiện 12 cuộc kiểm toán, chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý môi trường.

Công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt tăng dần qua các năm, đến hết năm 2024 đạt 97,26% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp.

Việc chuyển đổi xanh trong các ngành, lĩnh vực hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy mạnh mẽ; hành lang pháp lý về phát triển thị trường carbon tại Việt Nam đã và đang được hình thành.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Đoàn giám sát cũng chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Theo đó, tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra, vẫn còn diễn biến phức tạp, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn; chỉ số chất lượng không khí có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân.

Đến tháng 9/2025, cả nước vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để. Tỷ lệ chôn lấp trực tiếp tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao, nhiều bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường chậm được xử lý. Cả nước mới có 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Thực hiện các biện pháp cấp bách cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn

Trước thực trạng trên, Đoàn giám sát đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp đột phá, trong đó nhấn mạnh việc thúc đẩy kinh tế hóa môi trường, thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải; áp dụng triệt để nguyên tắc “người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”.

Đồng thời, tập trung ưu tiên nguồn lực từ ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cho bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, ưu tiên dành nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng môi trường thiết yếu như hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị, xử lý rác thải; cải thiện và phục hồi môi trường các lưu vực sông.

 Quang cảnh phiên họp ở hội trường sáng 28/10. (Ảnh: DUY LINH)

Quang cảnh phiên họp ở hội trường sáng 28/10. (Ảnh: DUY LINH)

Hỗ trợ hoạt động chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ mới không phát thải, công nghệ lưu trữ năng lượng, thu giữ và sử dụng carbon thông qua các cơ chế tài chính linh hoạt.

Chú trọng đổi mới hình thức, phương thức ưu đãi, hỗ trợ cho dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường và áp dụng tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG) phù hợp với thực tế từng địa phương. Đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ carbon trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên cho phát triển thị trường trong nước.

Giải pháp nữa được Đoàn giám sát đưa ra là đẩy mạnh ứng dụng và phát triển Chính phủ số, xã hội số, công dân số trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là trong quản lý chất thải, kiểm soát nguồn thải, giải quyết thủ tục hành chính.

Đoàn giám sát cũng kiến nghị tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI. Trước mắt, xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật này tại Kỳ họp thứ 10 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội

Ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045; thực hiện ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Cùng với đó, tổ chức thiết lập và vận hành thí điểm Sàn giao dịch tín chỉ carbon, bước đầu hình thành và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam; quy định tỷ lệ kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, lượng tín chỉ carbon tối thiểu được giữ lại để thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) khi trao đổi, chuyển giao ra quốc tế phù hợp với từng giai đoạn và tình hình thực tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia.

VĂN TOẢN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/ca-nuoc-con-38-co-so-gay-o-nhiem-moi-truong-nghiem-trong-chua-xu-ly-triet-de-post918580.html