Ca trù - di sản độc đáo của ông cha ta
Nhiều tài liệu cho rằng, nguồn gốc ca trù có từ đời nhà Lý và làng Lỗ Khê (Hà Nội) được coi là cái nôi ca trù Việt Nam. Cũng có tài liệu khác cho rằng ca trù xuất hiện từ đời Lê (thế kỷ 15), mà cây đàn đáy do Đinh Lễ sáng chế. Thoạt đầu nó có lối hát như chèo, phục vụ lễ hội cúng tế ở chốn đình trung, về sau việc tế lễ ở đình làng mai một thì người ta mang ca trù vào trong nhà, rồi trở thành thể loại thính phòng.
Nhưng vì sao có một thời trong quan niệm của xã hội coi ca trù là hát cô đầu, ả đào, là lĩnh vực "buôn phấn bán hoa" của những kẻ chơi bời? Số là hồi đầu thế kỷ trước, một số địa phương phát triển xóm cô đầu, mà nổi tiếng là Khâm Thiên (Hà Nội). Trong xóm cô đầu ấy, những bài ca trù được mang ra phục vụ khách làng chơi và bị biến dạng, bóp méo. Vậy là bản thân ca trù không có tội, mà người sử dụng nó có lỗi. Đến gần đây, ca trù đã được nhìn nhận lại và xã hội tôn vinh là một loại hình văn hóa phi vật thể đặc sắc.
Hát ca trù là thú chơi thanh nhã của ông cha ta, tuyệt nhiên không dung tục tầm thường như nhiều người ngộ nhận.
Trước đây ở Hải Dương có các giáo phường ca trù. Các giáo phường này có tổ chức chặt chẽ, từ cách ứng xử với khách nghe và các phường khác. Người ngoài giáo phường chỉ nghe lỏm mà biết hát, có hành nghề cũng chỉ coi là đào ngang. Người được đào tạo bài bản mới được gọi là đào nương. Các giáo phường đều thờ chung một vị tổ nghề. Tương truyền đó là Mãn Đường Hoa công chúa, quê ở Thanh Hóa, người sáng tạo và truyền bá ca trù. Sau ca trù được bổ sung, hoàn thiện thành một loại hình nghệ thuật độc đáo không thể lẫn với nghệ thuật khác.
Ca từ của ca trù là những vần thơ giàu nhạc điệu và chan chứa tình cảm của người yêu cuộc sống, tài hoa mới viết nên. Soạn giả ca trù ngày xưa thường là văn nhân, các thi sĩ hoặc quan viên tính tình phóng khoáng và từng nổi danh với nhiều giai thoại, như: Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh... Nội dung ca trù lại vô vàn phong phú, khi là tả nỗi niềm thế sự, khi là cảnh đẹp mộng mơ của nước biếc non xanh, cũng có bài tả cảnh tang bồng hiệp khách. Xin trích mấy câu hát sau đây: “Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước/Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui/Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi/Tính trăm tuổi đời người ta có nửa/Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa/Mặc trời cho ta chửa hỏi làm chi/ Sẵn rượu đào, xuân uống với ta đi…” (Gặp xuân-Tản Đà)
Một màn hát ca trù thường có 3 người: Người hát, người đệm đàn đáy và người cầm trống chầu. Người hát, còn gọi là đào hát hay đào nương. Đào nương ngoài vẻ đẹp trời phú còn là người được đào tạo trong giáo phường như nói bên trên, khi hát phải trang phục lịch lãm, đoan trang. Quần lĩnh, áo đoạn hoa, khăn nhung, tóc đuôi gà, các đào nương chỉ nhìn thẳng, không đánh mắt đưa tình, cợt nhả với quan khách nghe hát. Cũng không được tự tiện nhận tiền thưởng của khách. Họ chinh phục người nghe bằng âm thanh, nhả chữ buông lời, hút hồn khách bằng nghệ thuật thanh nhạc chứ quyết không bằng kiểu lả lơi rẻ tiền, dung tục.
Đào nương phải có bản lĩnh trong khi trình diễn nghệ thuật, bởi đối tượng nghe phần đông là các khách thuộc bậc thượng lưu, các quan địa phương ra tỉnh hoặc về Hà Nội công cán, rồi được bạn đồng liêu hay các văn nhân khoản đãi, chứ không có mấy thường dân. Cũng vì thế mà có khách nghe cũng phong lưu cầm trống chầu, hòa nhịp theo đào nương và kép đàn. Đào nương không quá xúc động trước những người hâm mộ và đấng mày râu.
Để có màn hát hay, có người đánh đàn đệm gọi là kép đàn và trống chầu của người thưởng thức, tức người cầm chầu, đào nương đã khổ công luyện giọng, khi buông lời phải tròn vành rõ chữ, hơi ngân phải rung đổ hột, thì kép đàn cũng gian nan luyện tập không kém. Anh kép đàn phải ngọt, hòa tấu ăn ý, lại bay bổng. Trong dàn đệm còn có cổ phách và trống chằn. Người cầm chầu không phân biệt giai tầng xã hội, mà căn bản là sành điệu. Phải biết phân biệt được khổ trống, làn điệu đâu là lạc nhạn, phi nhạn, đâu là thủy châu, tranh triện hay hạ mã. Người cầm chầu không được đánh trống lấp đi tiếng hát, như thế trong nghề cho là đánh vào miệng ca nương. Ngồi vào chiếu cầm chầu, quan viên phải gõ đúng nhịp, phách; trống khi thì một tiếng khoan nhặt, khi thì ba, năm tiếng dập dồn, có khi chín tiếng rộn ràng. Đến khi tới cao trào rộn rã, tiếng phách tiếng đàn ăn nhịp với nhau, quan viên cao hứng, đào nương trổ tài thì đúng là tri âm hội ngộ. Không khí hát ca trù lọt vào thế giới huyền ảo chỉ còn có sự tao nhã thiêng liêng, trong vắt chất liệu nhân văn.
Về kết cấu một bài ca trù mẫu mực thường có ba đoạn gọi là ba khổ. Hai khổ đầu mỗi khổ bốn câu, khổ thứ ba có ba câu. Nếu bài nào chỉ có khổ đầu và cuối, thiếu khổ giữa thì gọi là thiếu khổ. Trái lại có bài hơn ba khổ gọi là dôi khổ. Khổ dôi ra phải là khổ giữa, và dôi ra bao nhiêu tùy vào nội dung cần phải dài thêm.
Số chữ trong mỗi câu ca trù không hạn định, nhưng thông thường mỗi câu có bảy tám chữ, có trường hợp một câu chỉ có ba bốn chữ, cũng có trường hợp một câu kéo dài đến mười ba mười bốn chữ. Thông thường người ta dùng thể song thất lục bát biến thể. Đặc biệt câu kết bao giờ cũng chỉ có sáu chữ để phù hợp với nhịp phách. Trong ca trù, chú ý hai câu năm, sáu (mở đầu khổ thứ hai) thường là hai câu thơ luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn có khi bằng chữ Nôm hoặc chữ Hán. Khi tác giả cho vào ca trù lời thơ bằng chữ Hán thì người nghe thường khó hiểu, bởi đó là những điển tích cổ xưa, cho đến gần đây các nhà soạn giả dùng tiếng Việt cho dễ hiểu.
Vần trong ca trù cũng rất phong phú, đủ vần lưng và vần chân, vần trắc và vần bằng, nhưng phần nhiều là vần chân liền nhau từng đôi một. Âm hưởng của ca trù còn do ảnh hưởng của sự kết hợp các từ thanh bằng thanh trắc xen kẽ nhau, tạo thành giai điệu êm dịu bổng trầm mà đài các. Ngoài ra cũng có bài người ta cho mở đầu bằng mấy câu thơ lục bát gọi là "mưỡu đầu", và kết thúc cho hai câu lục bát gọi là “mưỡu hậu”.
Với những giá trị độc đáo như vậy, việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy loại hình di sản này chính là giữ gìn báu vật của ông cha ta.