Các chỉ số đánh giá về hoạt động KHCN của Trường ĐH Y Dược Thái Bình còn cách xa so với chuẩn

Thông tư 01 yêu cầu tỷ trọng thu từ hoạt động khoa học công nghệ trên tổng thu của trường cần đạt 5% nhưng Trường Đại học Y Dược Thái Bình mới đạt 2,6%.

Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, các cơ sở giáo dục đại học đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải tái định vị vai trò của mình không chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn là trung tâm nghiên cứu, sáng tạo và chuyển giao tri thức.

Tuy nhiên, tỷ lệ thu từ hoạt động khoa học công nghệ của nhiều cơ sở giáo dục hiện nay còn khiêm tốn. Thậm chí nhiều trường vẫn chưa đạt yêu cầu của Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về chuẩn cơ sở giáo dục đại học, trong đó có Trường Đại học Y Dược Thái Bình.

Tỷ trọng thu từ khoa học - công nghệ mới đạt 2,6%

Theo Báo cáo thường niên năm 2024, tại phần 1, mục VI Các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học công nghệ cho thấy, tỷ trọng thu khoa học - công nghệ trong năm báo cáo của trường là 2,6% (giảm 1% so với năm trước liền kề).

 Tỷ trọng thu khoa học - công nghệ của trường năm báo cáo mới đạt 2,6%. Ảnh chụp màn hình

Tỷ trọng thu khoa học - công nghệ của trường năm báo cáo mới đạt 2,6%. Ảnh chụp màn hình

Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT quy định, tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ (có tính trọng số theo lĩnh vực), tính trung bình trong 3 năm gần nhất không thấp hơn 5%.

Chia sẻ về nguyên nhân nguồn thu từ hoạt động khoa học và công nghệ giảm, đại diện Trường Đại học Y Dược Thái Bình cho biết: Việc thực hiện các đề tài khoa học công nghệ của trường gặp một số khó khăn. Theo đó, để có được các đề tài cấp Nhà nước, đề tài cấp Bộ thì cần xây dựng, đăng ký tham gia tuyển chọn trên toàn quốc.

Trường có 2 nhiệm vụ cấp quốc gia được đưa vào chương trình tuyển chọn giai đoạn 2025-2030, 1 nhiệm vụ cấp Bộ Y tế được giao trường chủ trì thực hiện từ năm 2026. Nhưng đến nay do việc sáp nhập các Bộ, ngành và thay đổi cơ chế chính sách nên sau 2 năm vẫn chưa có kết quả cụ thể.

Hằng năm, nguồn kinh phí chi cho đề tài cấp tỉnh khối ngành Y Dược khá hạn hạn chế. Chính vì vậy số lượng đề tài được duyệt cấp tỉnh cũng hạn chế. Mặc dù hằng năm Trường Đại học Y Dược Thái Bình có nhiều ý tưởng đăng ký (trung bình khoảng 10-15 ý tưởng đăng ký) cấp tỉnh nhưng được duyệt cũng rất ít, chỉ khoảng 2-3 đề tài/ năm và kinh phí cho mỗi đề tài dao động từ 400-700 triệu đồng.

Đối với các đề tài khoa học và công nghệ đã tạo ra sản phẩm thì các sản phẩm nghiên cứu phần lớn chưa chuyển giao và thương mại hóa được do cơ chế pháp lý, chính sách còn rườm rà. Quy định pháp lý về sở hữu trí tuệ, khai thác tài sản trí tuệ trong lĩnh vực Y Dược còn nhiều thủ tục phức tạp. Việc thẩm định, phê duyệt dự án nghiên cứu và hợp đồng chuyển giao còn nhiều bước, thời gian kéo dài.

Đại diện nhà trường cũng chia sẻ thêm về những khó khăn trong việc đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Thứ nhất là khó khăn về nguồn lực tài chính. Nguồn kinh phí cho nghiên cứu khoa học còn khiêm tốn, phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước cấp để thực hiện các đề tài cấp Quốc gia, cấp Bộ, cấp Tỉnh, trong khi chưa có quỹ hợp tác doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, công nghệ nghiên cứu hiện đại còn thiếu và chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến việc triển khai các nghiên cứu chuyên sâu hoặc có tính ứng dụng cao.

Thứ hai là khó khăn về nhân lực nghiên cứu. Đội ngũ giảng viên của trường tập trung giảng dạy, đi thực hành tại bệnh viện thực hành trong và ngoài tỉnh, làm công tác bệnh viện vì vậy không có nhiều thời gian dành cho nghiên cứu chuyên sâu.

Thiếu chuyên gia đầu ngành trong một số lĩnh vực mũi nhọn như: công nghệ sinh học, y sinh học phân tử, dược phẩm công nghệ cao dẫn đến hạn chế trong việc tạo ra sản phẩm khoa học công nghệ có tính cạnh tranh; thiếu các nhóm nghiên cứu mạnh, nghiên cứu liên ngành. Việc kết nối với đối tác quốc tế chưa đa dạng, chủ yếu tập trung ở một số trường, viện nghiên cứu truyền thống.

Thứ ba là khó khăn trong cơ chế, chính sách. Thủ tục hành chính khi đăng ký đề xuất đề tài, phê duyệt đề tài hoặc triển khai chuyển giao công nghệ còn phức tạp, mất nhiều thời gian.

Cơ chế hợp tác với doanh nghiệp, liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ chưa chặt chẽ, thiếu mô hình hợp tác bền vững.

Thứ tư là khó khăn về sản phẩm nghiên cứu. Các đề tài của trường hiện nay mang tính hàn lâm, nghiên cứu ứng dụng phục vụ chủ yếu cho công tác đào tạo và khám chữa bệnh hơn là tạo ra sản phẩm ứng dụng thực tiễn.

Thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ từ nghiên cứu sang sản xuất gặp khó khăn do cần nhiều kinh phí ngân sách và phải có kết nối doanh nghiệp, bảo hộ sở hữu trí tuệ.

 Sinh viên thi thực hành tại Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Ảnh: website nhà trường

Sinh viên thi thực hành tại Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Ảnh: website nhà trường

Trong thời gian tới, hưởng ứng việc triển khai Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường đã thành lập ban chỉ đạo về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhà trường.

Trường sẽ tập trung một số các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như tích cực triển khai thực hiện đúng tiến độ và hiệu quả 2 đề tài cấp Bộ Y tế được giao trong thời gian vừa qua.

Chuẩn bị tốt hồ sơ đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ để tham gia tuyển chọn thành công 2 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Quốc gia thực hiện từ năm 2026.

Tăng cường hợp tác với các bệnh viện tuyến trung ương, viện nghiên cứu, doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong và ngoài nước để thực hiện nghiên cứu khoa học chuyên sâu, thử nghiệm lâm sàng, ứng dụng công nghệ mới trong nghiên cứu để tạo ra sản phẩm nghiên cứu có chất lượng, ứng dụng thực tiễn cao.

Thành lập, hỗ trợ các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu liên ngành, đẩy mạnh xây dựng và triển khai thực hiện nhiều đề tài cấp Tỉnh, cấp Bộ, cấp Nhà nước, phấn đấu đưa các sản phẩm nghiên cứu khoa học vào thực tiễn gia tăng nguồn thu cho nhà trường từ nghiên cứu khoa học.

Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đề xuất, hỗ trợ nhà trường xây dựng đề án và thành lập trung tâm nghiên cứu y học và công nghệ sinh học. Trung tâm có nhiệm vụ là tập trung nghiên cứu phát triển các sản phẩm có thể thương mại hóa. Nhà trường cũng đã có công văn đề xuất với Sở Khoa học và Công nghệ, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên về lộ trình nghiên cứu, phát triển, chuyển giao thương mại hóa 6 sản phẩm khoa học công nghệ từ các nghiên cứu cơ bản đến thử nghiệm lâm sàng đến tạo ra các sản phẩm mẫu và chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp.

 Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Ảnh: LT

Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Ảnh: LT

Số lượng công bố khoa học, bài báo quốc tế còn khiêm tốn

Cũng trong bảng các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ, số công bố khoa học/giảng viên của trường là 169/395 (tương đương 0,43). Số công bố WoS, Scopus/trên giảng viên của trường là 41/395 (tương đương 0,1).

Theo tiêu chí 6.2, Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: “Số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù không thấp hơn 0,6 bài/năm trong đó số bài có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.

Liên quan đến vấn đề này, đại diện nhà trường cho biết, hiện nay, đội ngũ giảng viên của trường chủ yếu tập trung cho công tác giảng dạy, đi giảng tại các bệnh viện thực hành trong và ngoài tỉnh, làm công tác bệnh viện vì vậy thời gian dành cho nghiên cứu chuyên sâu chưa nhiều. Các nghiên cứu hiện nay chưa thực sự đủ mạnh để công bố quốc tế, tính cạnh tranh chưa cao.

Trường tự chủ từ năm 2021 nhưng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên thực tế mới thực hiện tự chủ được 2 năm. Nhà trường đã có cơ chế chính sách hỗ trợ phí đăng bài báo quốc tế nhưng còn khiêm tốn.

Để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên cũng như khuyến khích giảng viên đăng bài trên các tạp chí quốc tế uy tín, nhà trường đã có một số giải pháp.

Trước hết là nâng cao năng lực, phát triển kỹ năng về phương pháp nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên; tăng cường hợp tác với các bệnh viện tuyến trung ương, viện nghiên cứu đầu ngành và các trường đại học, viện nghiên cứu trên thế giới.

Thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu liên ngành, tăng đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị; nghiên cứu tập trung vào các lĩnh mới, có tính cạnh tranh cao, tạo ra sản phẩm ứng dụng trong thực tiễn.

Tăng cường hỗ trợ các hoạt động công bố khoa học, đặc biệt công bố quốc tế: kỹ năng viết bài quốc tế, phân tích dữ liệu, chọn tạp chí phù hợp, hỗ trợ kinh phí đăng bài, kinh phí thưởng bài báo.

Đối với phần 2, mục VI Các đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện trong năm trong Báo cáo thường niên năm 2025, cho thấy nhà trường có 68 đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện trong năm (9 đề tài cấp Bộ, Tỉnh; 55 đề tài cấp cơ sở; 3 đề tài hợp tác doanh nghiệp trong nước; 1 đề tài hợp tác quốc tế).

 Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học và kinh phí thực hiện trong năm 2025 của Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Ảnh chụp màn hình

Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học và kinh phí thực hiện trong năm 2025 của Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Ảnh chụp màn hình

Chia sẻ về kết quả thực hiện các đề tài này, đại diện nhà trường cho hay: Kết quả các đề tài này đã và đang được ứng dụng trong cải tiến chất lượng giảng dạy, đào tạo, viết sách, giáo trình tham khảo, chuyên khảo dành cho cho học viên, sinh viên; ứng dụng kết quả nghiên cứu trong công tác khám chữa bệnh.

Kết quả được các tác giả, nhóm nghiên cứu công bố 44 bài báo trên tạp chí quốc tế và 89 bài đăng trên tạp chí uy tín trong nước.

Về thương mại hóa sản phẩm, hiện tại, nhà trường đã có các văn bản gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh để đề xuất 06 sản phẩm khoa học và công nghệ có thể nghiên cứu, ứng dụng để chuyển giao thương mại hóa bao gồm: Hạt vật liệu hấp phụ ion kim loại nặng trong nước; Nghiên cứu chiết xuất và đánh giá tác dụng kích thích sinh trưởng thực vật của dịch chiết từ cây rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata); Chế tạo và thử nghiệm hoạt tính kháng khuẩn của dung dịch nano bạc ổn định bằng tác nhân dầu dừa; Nghiên cứu bào chế cao lỏng có tác dụng chống viêm từ một số dược liệu; Nghiên cứu bào chế viên nang cứng hỗ trợ điều trị suy giảm chức năng gan từ một số dược liệu; Nghiên cứu bào chế viên nang cứng hỗ trợ điều trị thanh nhiệt tiêu độc từ một số dược liệu.

Nhà trường đã và đang chủ động thực hiện các nghiên cứu này và mong nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ và hỗ trợ của tỉnh để tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong cơ chế, chính sách, hỗ trợ kinh phí, kết nối với các doanh nghiệp khoa học và công nghệ để có thể chuyển giao, thương mại hóa các sản phẩm khoa học và công nghệ.

Về kết quả tài chính, ở mục 1, Các chỉ số đánh giá về tài chính cho thấy, chỉ số tăng trưởng bền vững của trường năm 2024 là 0,18%, mặc dù có tăng so với năm 2023 nhưng vẫn ở mức tương đối thấp.

Thông tư 01 quy định, chỉ số tăng trưởng bền vững, được xác định bằng trung bình cộng tốc độ tăng tổng thu và tốc độ tăng phần thu ngoài học phí, ngoài ngân sách Nhà nước/nhà đầu tư hỗ trợ chi thường xuyên trong 3 năm gần nhất, không âm.

Đại diện nhà trường cho biết, trong thời gian tới nhà trường sẽ tiếp tục mở rộng các ngành đào tạo và quy mô đào tạo. Đồng thời triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tỉnh, Nhà nước. Phấn đấu để đưa các sản phẩm khoa học chuyển giao công nghệ vào thực tiễn để có thể giúp nhà trường tăng nguồn thu từ khoa học công nghệ để ngày càng tăng chỉ số tăng trưởng bền vững.

Báo cáo thường niên cũng cho thấy tổng thu hoạt động của nhà trường trong năm 2024 là 318.038 triệu đồng. Trong đó, học phí, lệ phí từ người học chiếm 216.805 triệu đồng (tăng 1,85 lần so với năm 2023).

Nguồn thu từ khoa học và công nghệ năm 2024 là 6.386 triệu đồng, có tăng so với năm 2023, tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn thu.

 Nguồn thu từ khoa học và công nghệ của trường vẫn tương đối thấp trong tổng cơ cấu nguồn thu. Ảnh chụp màn hình

Nguồn thu từ khoa học và công nghệ của trường vẫn tương đối thấp trong tổng cơ cấu nguồn thu. Ảnh chụp màn hình

Theo đại diện Trường Đại học Y Dược Thái Bình, nhà trường là đơn vị tự chủ nhóm 2, tự chủ toàn bộ chi thường xuyên theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Nhà trường xác định học phí theo Nghị định số 97/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

Nhà trường đã xây dựng mức thu học phí và cũng có tăng hàng năm nên nguồn thu từ nghiên cứu khoa học khi giữ nguyên hoặc tăng nhỏ thì trong cơ cấu thu, nguồn thu từ học phí vẫn chiếm tỷ trọng lớn.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp trong nội dung về hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo ở Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo có nêu: Triển khai sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn;...

Tại Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, đối với định hướng phát triển và phân bố mạng lưới đến năm 2030 có nêu “chấm dứt hoạt động trước năm 2028 và giải thể trước năm 2030 đối với cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn hoặc không hoàn thành xác lập vị trí pháp lý theo quy định của pháp luật”.

LÃ TIẾN

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/cac-chi-so-danh-gia-ve-hoat-dong-khcn-cua-truong-dh-y-duoc-thai-binh-con-cach-xa-so-voi-chuan-post254186.gd