Các điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 so với Luật hiện hành
Bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hay có thêm chế độ thai sản với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện… là một trong nhiều điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 so với luật hiện hành.
Vụ Pháp chế (Bảo hiểm xã hội Việt Nam) cho biết, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 gồm 11 chương, 141 điều; tăng 2 chương và 16 điều so với Luật hiện hành, bao gồm nhiều điểm mới. Trong đó, có một số nội dung mới đáng quan tâm dưới đây.
1. BỔ SUNG TRỢ CẤP HƯU TRÍ XÃ HỘI ĐỂ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐA TẦNG
Hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng bao gồm: trợ cấp hưu trí xã hội, bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung để hướng tới bao phủ toàn dân.
Theo thông tin của Vụ Pháp chế (Bảo hiểm xã hội Việt Nam), trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 là loại hình bảo hiểm xã hội do ngân sách nhà nước bảo đảm, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi, trong đó quy định:
Trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 là loại hình bảo hiểm xã hội do ngân sách nhà nước bảo đảm, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi,
(i) Độ tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thấp hơn 5 tuổi so với tuổi hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi hiện hành. Cụ thể:
Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi mà không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(ii) Mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng do Chính phủ quy định phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
Định kỳ 3 năm, Chính phủ thực hiện rà soát, xem xét việc điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(iii) Người vừa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội vừa thuộc đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng thì được hưởng chế độ trợ cấp cao hơn.
(iv) Được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế khi đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; khi chết thì tổ chức, cá nhân lo mai táng được nhận hỗ trợ chi phí mai táng theo quy định của pháp luật về người cao tuổi.
(v) Xem xét điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội trên cơ sở đề nghị của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
2. BỔ SUNG QUY ĐỊNH NHẰM GIA TĂNG SỰ LIÊN KẾT GIỮA TẦNG TRỢ CẤP HƯU TRÍ XÃ HỘI VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI CƠ BẢN
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bổ sung chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội. Cụ thể:
(i) Công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian đóng để hưởng lương hưu và chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội nếu không hưởng bảo hiểm xã hội một lần và không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hằng tháng từ chính khoản đóng của mình. Thời gian hưởng, mức hưởng trợ cấp hằng tháng được xác định căn cứ vào thời gian đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. Mức trợ cấp hằng tháng thấp nhất bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Trường hợp tổng số tiền tính theo thời gian đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động cao hơn số tiền tính mức trợ cấp hằng tháng bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội tại thời điểm giải quyết hưởng cho khoảng thời gian từ khi đủ tuổi nghỉ hưu đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội thì người lao động được tính để hưởng trợ cấp hằng tháng với mức cao hơn.
Trường hợp tổng số tiền tính theo thời gian đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội không đủ để người lao động hưởng trợ cấp hằng tháng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, nếu người lao động có nguyện vọng thì được đóng một lần cho phần còn thiếu để hưởng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bổ sung chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
(ii) Mức trợ cấp hằng tháng được điều chỉnh khi Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng.
(iii) Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế; khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần cho những tháng chưa nhận và được hưởng trợ cấp mai táng nếu đủ điều kiện theo quy định.
3. MỞ RỘNG ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
Một trong những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 là mở rộng đối tượng được tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội bằng việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Các nhóm đối tượng được quy định tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là: Chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh; Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; người lao động làm việc không trọn thời gian; Người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc, thành viên Ban Kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với đối tượng khác mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội từng thời kỳ.
Quy định này tạo điều kiện cho việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các nhóm đối tượng khác phù hợp với sự thay đổi của quan hệ lao động, điều kiện phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của người lao động trong tương lai.
4. BỔ SUNG QUYỀN THỤ HƯỞNG CHẾ ĐỘ ỐM ĐAU, THAI SẢN VỚI LAO ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bổ sung quyền thụ hưởng chế độ ốm đau, thai sản đối với người lao động không chuyên trách ở cấp xã thay vì chỉ hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất như Luật hiện hành.
Trước đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn là nhóm người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Tuy nhiên, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và các văn bản hướng dẫn chỉ quy định mức đóng của người sử dụng lao động cho người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn là 14%, người lao động tự đóng là 8% vào quỹ hưu trí và tử tuất, không quy định mức đóng 3% của người sử dụng lao động vào quỹ ốm đau và thai sản. Do đó, người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn không được hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Quy định trên đã được sửa đổi khi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Theo đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và cả ở thôn, tổ dân phố thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, được người sử dụng lao động đóng 3% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản, và người lao động không phải đóng vào quỹ ốm đau và thai sản.
Như vậy, từ ngày 1/7/2025, khi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có hiệu lực, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố đủ điều kiện hưởng sẽ được hưởng đầy đủ chế độ thai sản theo quy định của Luật.
5. BỔ SUNG CHẾ ĐỘ THAI SẢN VÀO CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đáp ứng đủ điều kiện theo quy định được hưởng trợ cấp thai sản với mức là 2 triệu đồng cho mỗi con mới sinh do ngân sách nhà nước bảo đảm, người lao động không phải đóng thêm so với quy định hiện hành.
Lao động nữ là người dân tộc thiểu số hoặc lao động nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, khi sinh con, ngoài chế độ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
6. GIA TĂNG CƠ HỘI HƯỞNG LƯƠNG HƯU
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 gia tăng cơ hội được hưởng lương hưu của người tham gia bảo hiểm xã hội thông qua việc giảm điều kiện về số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm.
Quy định này nhằm tạo cơ hội cho các đối tượng bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội muộn (những người 45-47 tuổi mới bắt đầu tham gia) hoặc tham gia không liên tục hoặc làm công việc đặc thù có thời gian làm nghề ngắn dẫn đến khi đến tuổi nghỉ hưu vẫn không tích lũy đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội cũng có cơ hội được hưởng lương hưu hằng tháng và được bảo bảo đảm hiểm y tế.
Quy định này cũng góp phần giảm số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần do đủ điều kiện hưởng lương hưu. Đối với người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội dài hơn thì vẫn được hưởng lương hưu với tỷ lệ hưởng lương hưu cao hơn, không thay đổi so với quy định hiện hành.
7. NGƯỜI LAO ĐỘNG BẢO LƯU THỜI GIAN ĐÓNG ĐỂ HƯỞNG LƯƠNG HƯU THAY VÌ NHẬN BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận bảo hiểm xã hội một lần.
Người lao động đã chấm dứt tham gia bảo hiểm xã hội mà có đề nghị thì được hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội.
(ii) Ra nước ngoài để định cư.
(iii) Người đang mắc một trong những bệnh ung thư, bại liệt, xơ gan mất bù, lao nặng, AIDS.
(iv) Người có mức suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người khuyết tật đặc biệt nặng.
(v) Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước ngày 1/7/2025, sau 12 tháng không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà cũng không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm.
(vi) Đối tượng thuộc lực lượng vũ trang khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà cũng không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.
Người lao động không hưởng bảo hiểm xã hội một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn.
Cụ thể như: (i) Khi tiếp tục tham gia được hưởng các chế độ với mức hưởng cao hơn do các chế độ đều tính theo thời gian đóng (ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,...); (ii) Được hưởng lương hưu với điều kiện dễ dàng hơn; (iii) Trong thời gian hưởng lương hưu được Quỹ Bảo hiểm xã hội đóng bảo hiểm y tế; (iv) Được hưởng trợ cấp hằng tháng khi không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; (v) Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế; (vi) Ngoài ra, người lao động còn có cơ hội được hưởng chính sách hỗ trợ về tín dụng cho người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà bị mất việc làm.
Người lao động không hưởng bảo hiểm xã hội một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn.
8. BẢO ĐẢM TỐT HƠN QUYỀN LỢI BẢO HIỂM XÃ HỘI VỚI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI VÀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI VÀO LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có quy định bảo đảm tốt hơn quyền tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và người lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thông qua việc quy định linh hoạt hơn về đóng - hưởng, bổ sung quy định trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động ở Việt Nam và ở nước ngoài được tính để xét điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, người lao động khi đủ điều kiện có cơ hội được hưởng đồng thời chế độ hưu trí ở cả Việt Nam và nước mà Việt Nam có ký Điều ước quốc tế về bảo hiểm xã hội.
Mới đây nhất, Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Đại Hàn Dân quốc về bảo hiểm xã hội chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2024.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Cơ quan Hưu trí quốc gia (NPS) Hàn Quốc đã ký kết Thỏa thuận thực hiện Hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng về bảo hiểm xã hội của người lao động hai quốc gia. Đồng thời, văn bản hướng dẫn một số nội dung thực hiện Hiệp định này đã được ban hành kịp thời.
9. NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định về nâng cao hiệu quả đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng Quỹ Bảo hiểm xã hội thông qua việc mở rộng danh mục và phương thức đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội.
Các quy định này cụ thể như: (i) Đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội tại thị trường quốc tế là trái phiếu Chính phủ; (ii) Ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước, thị trường quốc tế; (iii) Bổ sung quy định quản lý hoạt động đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội; (iv) Bổ sung quy định việc duyệt, thẩm định, phê chuẩn quyết toán chi tổ chức và hoạt động bảo hiểm xã hội; Kiện toàn và nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội; (vi) Quy định rõ hơn các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về tài chính bảo hiểm xã hội, tài chính Quỹ Bảo hiểm xã hội.
10.BỔ SUNG MỘT CHƯƠNG QUY ĐỊNH VỀ BẢO HIỂM HƯU TRÍ BỔ SUNG
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bổ sung một chương quy định về bảo hiểm hưu trí bổ sung, trong đó quy định về đối tượng, nguyên tắc, Quỹ Bảo hiểm hưu trí bổ sung và chính sách của nhà nước đối với bảo hiểm hưu trí bổ sung, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
11. QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ "MỨC THAM CHIẾU" THAY CHO "MỨC LƯƠNG CƠ SỞ"
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã quy định "mức tham chiếu" dùng để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ bảo hiểm xã hội và do Chính phủ quyết định.
Khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bằng mức lương cơ sở.
Tại thời điểm mức lương cơ sở bị bãi bỏ thì mức tham chiếu không thấp hơn mức lương cơ sở tại thời điểm đó. Mức tham chiếu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội.
Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 cũng quy định giao Chính phủ trình Quốc hội xem xét điều chỉnh một số quy định liên quan đến căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, cách tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ tính lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và điều chỉnh tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc khi Nhà nước áp dụng chế độ tiền lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế cho hệ thống bảng lương hiện hành.
12. TĂNG CƯỜNG TÍNH TUÂN THỦ PHÁP LUẬT, BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 tăng cường tính tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động bằng việc dành riêng 1 chương để quy định quản lý thu, đóng bảo hiểm xã hội; làm rõ nội hàm và việc xử lý hành vi chậm đóng và hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội.
Luật bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội và các cơ quan có liên quan trong việc xác định và theo dõi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đôn đốc thực hiện trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và chậm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong phạm vi địa phương.
13. TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI HƠN CHO NGƯỜI THAM GIA VÀ THỤ HƯỞNG QUYỀN LỢI BẢO HIỂM XÃ HỘI
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người tham gia và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội thông qua việc bổ sung quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội; điều chỉnh, cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội; bổ sung quy định về đánh giá sự hài lòng của người dân đối với việc tổ chức thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội.
14. BẢO ĐẢM TỐT HƠN QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã kế thừa, phát triển những quy định hiện hành phù hợp đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, sửa đổi các quy định chưa phù hợp, bảo đảm tính khả thi, dài hạn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Có thể kể ra một số quy định như:
Bổ sung quy định về hưởng chế độ ốm đau đối với trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau không trọn ngày.
Người lao động được Quỹ Bảo hiểm xã hội đóng bảo hiểm y tế trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động nghỉ việc do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày thống nhất tính theo năm.
Bổ sung điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con đối với trường hợp phải nghỉ việc để điều trị vô sinh.
Quy định trường hợp lao động nữ mang thai từ đủ 22 tuần tuổi trở lên đủ điều kiện quy định mà bị sảy thai, phá thai, thai chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ thì lao động nữ và người chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như trường hợp lao động nữ sinh con.
Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ thai sản đối với trường hợp sau khi sinh con chết.
Người lao động được Quỹ Bảo hiểm xã hội đóng bảo hiểm y tế trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng.
Quy định thống nhất với Bộ luật Lao động năm 2019 về tuổi nghỉ hưu, điều kiện về tuổi hưởng lương hưu.
Sửa đổi, bổ sung quy định về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu để khuyến khích người lao động tiếp tục làm việc, đóng bảo hiểm xã hội sau tuổi nghỉ hưu.
Sửa đổi quy định về điều kiện về tuổi của thân nhân hưởng trợ cấp tuất hằng tháng thống nhất, phù hợp với tuổi nghỉ hưu của Bộ luật Lao động năm 2019.
Sửa đổi quy định về quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hằng tháng hoặc một lần theo hướng tôn trọng quyền lựa chọn của thân nhân người lao động, không phân biệt trường hợp nào; khi các thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng thì có quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hằng tháng hoặc lựa chọn hưởng trợ cấp tuất một lần theo hướng có lợi hơn.