Các tội danh liên quan gián tiếp đến hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
Các tội danh liên quan gián tiếp đến hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người theo tinh thần Công ước Chống tra tấn.
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật
Điều 377 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật- cũng là một tội danh liên quan tới tra tấn trong hoạt động tư pháp. Điều luật quy định cụ thể các nhóm hành vi cấu thành tội phạm bao gồm: không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật ra lệnh, quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật; không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật; thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành; không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
Chủ thể của tội phạm này là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện một trong các hành vi nêu trên, xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác, đồng thời xâm phạm tính đúng đắn của hoạt động tố tụng.
Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội 06 tháng tù đến 12 năm tùy trường hợp cụ thể và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
So với quy định của BLHS năm 1999, Điều 377 BLHS năm 2015 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung như sau:
Sửa đổi cấu thành tội phạm cơ bản, theo hướng ngoài hành vi không ra quyết định trả tự do và không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do như quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 bổ sung các nhóm hành vi mới như đã nêu ở trên.
Cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” tại khoản 2 của Điều luật bằng các tình tiết: (1) làm người bị giam, giữ trái pháp luật bị tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; (2) làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn. Đồng thời, bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2, gồm: giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người; đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Nâng mức hình phạt tại khoản 3 của Điều luật lên thành từ 05 năm đến 12 năm (trước đây là từ 05 đến 10 năm) để bảo đảm xử lý nghiêm khắc hơn đối với tội phạm này; cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng các tình tiết: làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết; làm người bị giam, giữ tự sát; làm gia đình người bị giam, giữ ly tán.
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu là một trong số nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có liên quan đến hành vi tra tấn, theo đó, Điều 384 của Bộ luật quy định người nào mua chuộc hoặc cưỡng ép người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự để những người này khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc không khai báo, không cung cấp tài liệu; mua chuộc, cưỡng ép người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối hoặc người phiên dịch, người dịch thuật dịch xuyên tạc thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Trường hợp người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác để cưỡng ép người khác khai báo, cung cấp tài liệu là tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều luật.
Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra có thể làm việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án,... Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm mà tùy từng trường hợp cụ thể có thể được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp là người có chức vụ, quyền hạn mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mua chuộc, cưỡng ép khai báo, cung cấp tài liệu thì là tình tiết tăng nặng định khung tại khoản 2 Điều luật. Hành vi được thực hiện với lỗi cố ý.
Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội là cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng tù đến 07 năm tùy trường hợp cụ thể.
So với BLHS 1999, BLHS 2015 đã sửa đổi tình tiết định tội không chỉ là cưỡng ép, mua chuộc để khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, mà còn cưỡng ép, mua chuộc để các đối tượng không khai báo, không cung cấp tài liệu phục vụ cho việc giải quyết vụ án, vụ việc. Đồng thời, Bộ luật năm 2015 đã mở rộng phạm vi người bị mua chuộc, bị cưỡng ép khai báo, cung cấp tài liệu bao gồm: người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
Điều 157 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật. Đây là hành vi xâm phạm quyền tự do về thân thể, tự do đi lại của người khác đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ, theo đó, “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;...không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang”.
Điều luật quy định 03 hành vi cụ thể; chủ thể của tội phạm có thể thực hiện một trong ba hành vi hoặc hai trong ba hành vi hoặc cả ba hành vi này: bắt người trái pháp luật; giữ người trái pháp luật hoặc/và giam người trái pháp luật. Tính chất trái pháp luật của các này hành vi nêu trên được hiểu là việc bắt, giữ, giam người không đúng về thẩm quyền, không có căn cứ,... Để xác định hành vi bắt, giữ, giam người có trái pháp luật hay không trước hết phải so sánh, đối chiếu với pháp luật hiện hành về các trường hợp bắt, giữ, giam người hợp pháp nêu trên; nếu hành vi bắt, giữ, giam người không đủ căn cứ, không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nêu trên thì đều là trái pháp luật.
Đồng thời, để bảo đảm xử lý đúng đắn, chính xác hành vi phạm tội, giải quyết những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn xử lý tội phạm, khoản 1 Điều luật bổ sung quy định mới về việc loại trừ các hành vi bắt, giữ, giam người không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều luật này, cụ thể là các trường hợp: i) lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điều 377 BLHS năm 2015 (như đã nêu tại điểm a ở trên); ii) dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS năm 2015 về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi.
Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái phép là người nào từ đủ 16 tuổi trở lên đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự . Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, mặc dù biết hành vi bắt, giữ, giam người khác của mình là trái pháp luật nhưng người phạm tội vẫn thực hiện.
Hình phạt áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 12 năm tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đối với người đang thi hành công vụ; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Khung hình phạt cao nhất với mức phạt tù từ 05 đến 12 năm được áp dụng đối với một trong các trường hợp: làm người bị bắt, giữ, giam chết hoặc tự sát; tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm của người bị bắt, giữ, giam; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Ngoài các hình phạt chính nêu trên, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 đến 05 năm.
So với quy định của BLHS năm 1999 về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), điểm mới của BLHS năm 2015 tại Điều luật này tập trung vào một số nội dung: i) bổ sung các trường hợp loại trừ việc xử lý hình sự theo quy định tại Điều luật này để bảo đảm áp dụng đúng, thống nhất pháp luật; ii) bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm tại khoản 2, khoản 3 và cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 3 bằng các hậu quả cụ thể. Đặc biệt, Bộ luật đã bổ sung tình tiết “tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 157 để bảo đảm phù hợp hơn với Công ước Chống tra tấn. Đồng thời, chính sách xử lý đối với người thực hiện hành vi cũng theo hướng tăng nặng hơn.
Ngoài các tội danh nêu trên, BLHS năm 2015 còn nhiều tội danh liên quan đến tra tấn, cụ thể là:
Một số tội danh thuộc Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu như tội làm nhục đồng đội (Điều 397 BLHS) và tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 420).
Để có thể xử lý được các chủ thể khác thực hiện hành vi tra tấn, ngoài người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, các tội danh liên quan cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng bổ sung một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để phạm tội (tội đe dọa giết người (Điều 133), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157), tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu (Điều 384)) hoặc tình tiết “tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” tại một số quy định về tội phạm cụ thể.