Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bài học xây dựng hệ thể chế trong kỷ nguyên mới

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, quyền làm chủ của Nhân dân mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân với những bài học quý báu đối với cách mạng Việt Nam. Một hệ thể chế hiện đại, dân chủ, thích ứng sẽ là điều kiện quyết định để Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện lịch sử, chính trị trọng đại của dân tộc Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong tiến trình phát triển của đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia mới chưa từng có trong lịch sử Việt Nam - hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân.

Trước bối cảnh dân tộc ta bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ, với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thể chế quốc gia hiện đại, dân chủ, hiệu quả và hội nhập đang là yêu cầu tất yếu, cấp thiết đặt ra. Điều đó đòi hỏi chúng ta không chỉ hướng đến tương lai, mà còn cần phải nhìn về quá khứ, khai thác chiều sâu lịch sử để phát huy những bài học quý giá từ thực tiễn xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong bối cảnh, điều kiện lịch sử mới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đặt nền móng cho xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân

Trước năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, không có hiến pháp, không có hệ thống pháp luật độc lập. Nhà nước bảo hộ đàn áp Nhân dân, bộ máy hành chính quan liêu, tòa án bất công, luật lệ thiên vị giai cấp thống trị. Hệ thống thể chế lúc bấy giờ đều hướng đến phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị và thế lực ngoại bang; hoàn toàn đối lập với lợi ích, nguyện vọng của Nhân dân; Nhân dân không có quyền dân chủ, không có quyền quyết định vận mệnh dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu Báo QĐND

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu Báo QĐND

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, phát xít Nhật và lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm trên đất nước ta; mở ra một Kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - Kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay sau thắng lợi, quán triệt sâu sắc chỉ dẫn của V.I.Lênin “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều” và điều kiện thực tiễn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẩn trương tiến hành xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân toàn diện trên các lĩnh vực “dẫn dắt” quá trình kiến tạo, xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách mạng.

Thiết lập nền tảng thể chế chính trị và pháp lý của nước Việt Nam độc lập. Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây không chỉ là lời tuyên bố chính trị mà còn là văn bản pháp lý nền tảng, mang tính hiến định đầu tiên, xác lập chủ quyền quốc gia và nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, tự do của Nhà nước mới. Việc thiết lập chính thể cộng hòa, một Nhà nước dân chủ Nhân dân đã đánh dấu sự thay đổi căn bản về thể chế từ thuộc địa nửa phong kiến chuyển sang Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện có giá trị như một tuyên bố thể chế, khẳng định “quyền tự quyết dân tộc và quyền làm chủ của Nhân dân”, đồng thời đặt nền móng cho việc xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập trên cơ sở quyền lực thuộc về Nhân dân. Tuyên ngôn viết: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.

Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh đứng đầu được thành lập đã khẩn trương ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thiết lập một trật tự pháp lý mới như: Sắc lệnh về việc xây dựng, củng cố chính quyền, tòa án, quân đội; Sắc lệnh về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội; Sắc lệnh về lĩnh vực văn hóa, giáo dục,... khẳng định tính chính danh của chính quyền cách mạng. Một trong những điểm đáng chú ý là Chính phủ lâm thời đã chủ động xóa bỏ toàn bộ hệ thống pháp luật cũ phản dân chủ, đồng thời kế thừa có chọn lọc những nội dung còn phù hợp trong tổ chức và vận hành thể chế hành chính.

Thiết lập cơ sở lập hiến và pháp quyền. Một trong những bước đi trong xây dựng hệ thể chế quốc gia dân chủ Nhân dân chính là việc thiết lập cơ sở lập hiến và nền pháp quyền. Ngay từ tháng 9/1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi toàn quốc để bầu Quốc hội - Cơ quan lập pháp cao nhất. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 đã thể hiện đầy đủ tinh thần dân chủ của chế độ mới khi mọi công dân từ 18 tuổi đều có quyền đi bầu, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, tầng lớp xã hội. Sau Tổng tuyển cử, ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I tổ chức kỳ họp đầu tiên, thành lập Chính phủ chính thức và khởi động tiến trình lập hiến. Tháng 11/1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).

Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, mang đậm tinh thần pháp quyền, phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng và quyền làm chủ của Nhân dân. Hiến pháp quy định rõ ràng về chế độ chính trị, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thiết chế tổ chức bộ máy Nhà nước, xác lập nguyên tắc phân quyền, kiểm soát quyền lực và nền dân chủ rộng rãi. Hiến pháp năm 1946 đề cao vai trò của Nhân dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ, như: tự do ngôn luận, tín ngưỡng, lập hội, biểu tình... Đồng thời, cũng quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước, thiết lập nền tảng cho hệ thể chế dân chủ Nhân dân và trở thành khuôn mẫu hiến định đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta.

Xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ Trung ương đến cơ sở. Ngay sau khi giành được chính quyền, một trong những việc đầu tiên mà chính quyền cách mạng làm là đặt trọng tâm vào việc hình thành bộ máy quản trị từ Trung ương đến cơ sở, coi đây là nền tảng thiết yếu của thể chế dân chủ mới. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã được thành lập. Bộ máy hành pháp bước đầu bao gồm các bộ. Cùng với đó đã khẩn trương tổ chức chính quyền ở địa phương theo nguyên tắc dân chủ Nhân dân. UBND và Ủy ban kháng chiến được thành lập ở các cấp xã, huyện, tỉnh, thực hiện chức năng quản lý hành chính, tổ chức kháng chiến, duy trì trật tự an ninh và cải thiện đời sống Nhân dân. Các tổ chức đoàn thể cách mạng như Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt), Hội Phụ nữ cứu quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc,... trở thành các lực lượng nòng cốt hỗ trợ xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhân dân, tạo sự gắn kết rộng rãi giữa Đảng, chính quyền, quần chúng. Việc thiết lập hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương được tiến hành khẩn trương và có bài bản, tạo điều kiện để đất nước bước vào giai đoạn mới với tư cách một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có thể chế rõ ràng.

Xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ Trung ương đến cơ sở được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, gắn bó với Nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” và “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Trên tinh thần đó, ngày 22/11/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 63/SL quy định về tổ chức Ủy ban Hành chính các cấp. Quy định chỉ rõ: “Ở mỗi làng, xã... sẽ có một Ủy ban hành chính do dân bầu ra bằng cách phổ thông đầu phiếu”. Việc thiết lập thể chế ở cơ sở là sự thể chế hóa nguyên tắc dân chủ trực tiếp, trao quyền cho Nhân dân tự tổ chức và điều hành công việc làng xã. Điều này thể hiện sự tôn trọng vai trò của Nhân dân trong quản lý xã hội và là một cấu phần quan trọng trong hệ thể chế thống nhất từ trung mô hình quản trị hiệu quả, vừa linh hoạt trong thời chiến, vừa định hình nền hành chính dân chủ đầu tiên ở nước ta.

Xây dựng hệ thống thể chế hành chính, công vụ được Chính phủ mới đặc biệt chú trọng bởi đây là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nhiều văn bản quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, quyền hạn của các bộ, ngành đã được ban hành. Các cơ quan hành chính từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã được lập và vận hành theo cơ chế hành chính mới, phù hợp với yêu cầu “quốc gia độc lập và Nhân dân làm chủ”. Khẳng định vai trò quan trọng của tổ chức bộ máy, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không có tổ chức thì làm việc gì cũng khó. Có tổ chức tốt thì việc gì cũng dễ dàng”, đồng thời Người nhấn mạnh bộ máy hành chính phải gần dân, do dân và vì dân.

Về phân công, phân cấp trong bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy” thể hiện tư duy quản trị hiện đại, yêu cầu rõ ràng về chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm. Người cũng yêu cầu đổi mới phong cách lãnh đạo, kết hợp lý luận với thực tiễn, xây dựng một thể chế điều hành hiệu quả, thích ứng và gần dân. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước, coi cán bộ, công chức là thành tố trung tâm trong thể chế công vụ, cần được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cả đạo đức và năng lực vì theo Người “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” và “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong”. Theo đó, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành quy định về tuyển chọn cán bộ, công chức hành chính theo năng lực, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng.

Trọng dụng trí thức, chuyên gia dưới chế độ cũ là những người am hiểu thể chế và vận hành xã hội. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những người như vua Bảo Đại, cụ Huỳnh Thúc Kháng và nhiều quan lại, trí thức của triều đình phong kiến được trọng dụng như Bùi Bằng Đoàn (Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn), Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim), Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền đức vua Bảo Đại), Tham tri Đặng Văn Hướng; Vi Văn Định (cựu Tổng đốc Thái Bình), Hồ Đắc Điềm (cựu Tổng đốc Hà Đông)... được mời làm cố vấn và tham gia vào bộ máy Nhà nước mới nhờ kiến thức, kinh nghiệm và sự tận tụy với đất nước của họ. Chính sách này thể hiện một tư duy thể chế mở, hữu dụng và bao dung, không câu nệ lý lịch mà đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Đây cũng là cách tiếp cận nhân văn trong phát triển thể chế dựa trên tri thức mà Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng hết sức linh hoạt để xây dựng hệ thể chế quốc gia trong bối cảnh chuyển giao lịch sử lúc bấy giờ.

Những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trên đây không chỉ có giá trị lịch sử mà còn mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Việc thiết lập thể chế chính trị, pháp lý; xây dựng cơ sở lập hiến và pháp quyền; tổ chức quản trị hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở và trọng dụng trí thức là những trụ cột cốt lõi của hệ thể chế hiện đại. Trong Kỷ nguyên mới, việc kế thừa và phát triển những bài học đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển bền vững và khẳng định vị thế, uy tín trên trường quốc tế.

Phát huy bài học xây dựng hệ thể chế sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển mình lịch sử của dân tộc, Việt Nam không chỉ bảo vệ nền độc lập như sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà đã tiến xa hơn, đó là sự khẳng định cơ đồ, vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Đó là Kỷ nguyên vươn mình phát triển mạnh mẽ, đúng như kỳ vọng lịch sử từng mở ra vào mùa Thu 1945. Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, với những đặc trưng nổi bật, như: Chuyển đổi mô hình phát triển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; hội nhập quốc tế toàn diện, là đối tác chiến lược của nhiều quốc gia, thành viên tích cực trong các tổ chức quốc tế; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số; tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quản trị hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia... với những cơ hội lớn, như khoa học - công nghệ phát triển nhanh mở ra khả năng rút ngắn khoảng cách phát triển; giai đoạn dân số vàng, tầng lớp trí thức, chuyên gia ngày càng đông đảo; vị thế địa chính trị của Việt Nam ngày càng tăng lên.

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Ảnh tư liệu Báo QĐND

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Ảnh tư liệu Báo QĐND

Tuy nhiên, sự biến động an ninh, kinh tế, chính trị quốc tế ngày càng phức tạp; yêu cầu quản trị hiện đại; khoảng cách phát triển, nguy cơ tụt hậu nếu không kịp đổi mới thể chế... là những thách thức không hề nhỏ, đặt ra yêu cầu phải có một hệ thể chế đủ mạnh, linh hoạt, hiện đại để không chỉ giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mà còn dẫn dắt quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cần được kế thừa, phát huy để hoàn thiện hệ thể chế ở nước ta theo hướng hiện đại hóa, đó là:

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật nhằm tháo gỡ “nút thắt”, “điểm nghẽn”, khơi thông nguồn lực để phát triển đất nước. Kế thừa những thành quả xây dựng hệ thể chế quốc gia từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong 80 năm qua Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò của thể chế, pháp luật đối với sự phát triển của đất nước và đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách về hoàn thiện thể chế, pháp luật phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đến nay đã hình thành hệ thống thể chế, pháp luật tương đối đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển trong Kỷ nguyên mới, thể chế, pháp luật vẫn còn nhiều tồn tại, chồng chéo, thiếu minh bạch, gây cản trở đến đổi mới sáng tạo, năng lực cạnh tranh quốc gia và hiệu quả quản trị quốc gia.

Để hiện thực hóa khát vọng vươn mình của dân tộc, chúng ta phải giải quyết nhiều việc, trong đó, một nhiệm vụ rất trọng tâm là phải tiếp tục quan tâm hoàn thiện thể chế, pháp luật nhằm tháo gỡ “nút thắt”, “điểm nghẽn”, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tận dụng mọi cơ hội phát triển.

Phát huy bài học xây dựng hệ thể chế sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải hành động nhanh, quyết đoán trong khởi tạo và sửa đổi thể chế, không để lỡ thời cơ. Cần quyết liệt cắt bỏ các rào cản, tháo gỡ “nút thắt”, “điểm nghẽn” về thể chế hiện nay. Trọng tâm là: Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng thể chế, pháp luật và phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng thể chế, pháp luật. Xây dựng hệ thống thể chế, pháp luật mang tính tổng thể, minh bạch, ổn định, khả thi, có khả năng thích ứng linh hoạt với biến động.

Đổi mới cách tiếp cận: thay vì kiểm soát, cấm đoán, cần “mở rộng không gian pháp lý”, trao quyền nhiều hơn cho các chủ thể xã hội. Đẩy mạnh công khai, minh bạch trong quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, có cơ chế phản biện xã hội, đánh giá tác động chính sách, tăng sự tham gia của người dân, doanh nghiệp. Phát huy cao độ tinh thần phục vụ Nhân dân, tư duy kiến tạo phát triển, hành động vì lợi ích chung của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện các giải pháp đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật; tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, cùng cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành thể chế, pháp luật.

Phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của Nhân dân. Mọi thể chế nếu không đặt Nhân dân vào vị trí trung tâm thì tất yếu sẽ đánh mất nền tảng chính trị - xã hội vững chắc và lâu bền. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bài học lớn nhất là phát huy cao độ tinh thần làm chủ của Nhân dân, không chỉ trong khởi nghĩa giành chính quyền, mà còn trong việc xây dựng thể chế mới. Từ tổng tuyển cử đến lập hiến, tổ chức chính quyền các cấp, tự quản ở làng xã... Trong Kỷ nguyên mới, đòi hỏi phát triển toàn diện và bền vững càng đặt ra yêu cầu phải nâng tầm vai trò chủ thể của Nhân dân từ đối tượng thụ hưởng thành chủ thể kiến tạo, đồng hành và kiểm soát quyền lực.

Cần tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc “Nhân dân làm chủ” trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội, từ hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, đến giám sát thực thi và phản biện xã hội. Việc phát triển đồng bộ các hình thức dân chủ: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện là con đường căn bản để hiện thực hóa điều đó. Chính Nhân dân chứ không phải một lực lượng nào khác mới là yếu tố bảo đảm cho một hệ thể chế vững mạnh, linh hoạt, hiệu quả.

Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 2 cấp. Để khắc phục những hạn chế, bất cập của tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị như tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, chức năng chồng chéo và cơ chế phối hợp vướng mắc, khó xác định trách nhiệm... dẫn đến hiệu suất làm việc thấp, thủ tục hành chính rườm rà, cán bộ quan liêu, trì trệ trong giải quyết công việc; đồng thời để mở ra không gian phát triển mới, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, tăng cường liên kết vùng và gia tăng nguồn lực phát triển cho các địa phương và là cơ hội, tiền đề để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và bước vào Kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, Việt Nam đã thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính, xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp theo tinh thần quyết liệt “vừa chạy, vừa xếp hàng”, “chỉ bàn làm, không bàn lùi”.

Phát huy bài học xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ Trung ương đến cơ sở sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên trong hệ thống Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân về mô hình tổ chức bộ máy mới. Hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật nhằm bảo đảm thể chế hóa kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị trong thực tiễn. Rà soát toàn bộ hệ thống quy định, văn bản liên quan để sửa đổi, bổ sung phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới, kịp thời tháo gỡ “điểm nghẽn”, rào cản phát triển; huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.

Theo dõi, bám sát việc triển khai thực hiện thể chế, pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của cơ quan, tổ chức được xây dựng theo mô hình tổ chức bộ máy mới, đánh giá kết quả hoạt động, từ đó có giải pháp điều chỉnh kịp thời, khắc phục hạn chế, bất cập để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức. Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng. Cơ chế, chính sách phải bảo đảm tính công bằng, hài hòa trong tổng tương quan chung giữa các đối tượng nhằm ổn định cuộc sống, quyền và lợi ích để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy.

Việc xây dựng chính sách phải gắn với trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong đánh giá, sàng lọc, lựa chọn đối tượng nghỉ gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ, đồng thời không để chảy máu chất xám, bảo đảm duy trì và giữ chân cán bộ, công chức, viên chức tốt, có năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm, kịp thời trường hợp lợi dụng việc sắp xếp tổ chức, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và cơ quan, tổ chức. Phát huy và tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia công tác giám sát, kiểm tra việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy mới.

Đổi mới tư duy, chính sách thể chế về nguồn lực con người. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một trong những bài học sâu sắc và sáng suốt nhất là tư duy “trọng dụng nhân tài, không phân biệt thành phần xuất thân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều trí thức, chuyên gia, thậm chí từng phục vụ dưới chế độ cũ, đã được trọng dụng và trở thành những nhân tố nòng cốt trong việc hoạch định chính sách, xây dựng nền hành chính cách mạng, góp phần đặt nền móng cho hệ thể chế quốc gia non trẻ. Tư duy ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục khai thác, đổi mới mạnh mẽ trong hệ thể chế hiện đại.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh về trí tuệ ngày càng gay gắt, nguồn lực con người, đặc biệt là nhân tài, chuyên gia, trí thức chính là yếu tố quyết định năng lực thể chế và năng lực cạnh tranh quốc gia. Để phát huy tối đa nguồn lực này, cần xây dựng thể chế khuyến khích, trọng dụng và bảo vệ người tài, tạo điều kiện để đội ngũ trí thức trong và ngoài nước được tham gia thực chất vào các quá trình như hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, thể chế nhân sự quốc gia cần chuyển từ “quản lý con người” sang “tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện”, lấy hiệu quả công việc và đóng góp thực chất làm thước đo, chứ không chỉ dựa vào lý lịch, cơ cấu hay hình thức hành chính. Đổi mới tư duy thể chế về nguồn lực con người chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng một Nhà nước kiến tạo, một nền quản trị có chiều sâu trí tuệ và có khả năng vượt qua những thách thức mới của thời đại.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, quyền làm chủ của Nhân dân mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân với những bài học quý báu đối với cách mạng Việt Nam. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thể chế quốc gia không chỉ là phát huy di sản lịch sử, mà còn là yêu cầu bắt buộc để nâng cao năng lực quản trị quốc gia, bảo đảm dân chủ, phát triển nhanh và bền vững. Một hệ thể chế hiện đại, dân chủ, thích ứng sẽ là điều kiện quyết định để Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong Kỷ nguyên mới.

GS.TS Tạ Ngọc Tấn - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/cach-mang-thang-tam-nam-1945-voi-bai-hoc-xay-dung-he-the-che-trong-ky-nguyen-moi.811170.html