Cách nhận biết sớm, xử trí kịp thời ngộ độc thuốc tê
Ngộ độc thuốc tê nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong.
Nhiều thủ thuật sử dụng thuốc tê
Ngày nay, việc sử dụng thuốc tê rất phổ biến, từ các thủ thuật thực hiện tại các cơ sở y tế bên ngoài bệnh viện như: nhổ răng, tiểu phẫu vết thương… đến các thủ thuật, tiểu phẫu thuật thực hiện tại bệnh viện như: đặt catheter, chọc ống sống thắt lưng, phẫu thuật tạo hình-thẩm mĩ…
Nhất là trong bối cảnh việc thực hiện kĩ thuật gây tê trước khi làm các thủ thuật này có xu hướng được thực hiện bởi các bác sĩ không thuộc chuyên ngành Gây mê-Hồi sức, tình trạng ngộ độc thuốc tê có thể xảy ra và gây ra hậu quả nghiêm trọng đe dọa đến tính mạng bệnh nhân nếu không được xử trí kịp thời.
Mới đây, Khoa Cấp cứu, Bệnh viện TWQĐ 108 vừa tiếp nhận một bệnh nhân nam, 66 tuổi vào cấp cứu trong tình trạng xuất hiện các triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, run chân tay sau khi nhổ răng, trong quá trình nhổ răng có sử dụng 2 ống Lidocain 2% tê tại chỗ; các dấu hiệu sinh tồn và các chỉ số xét nghiệm cơ bản đều trong giới hạn bình thường. Bệnh nhân được chẩn đoán theo dõi ngộ độc thuốc tê Lidocain sau nhổ răng.
Ngay lập tức bệnh nhân được truyền tĩnh mạch nhũ tương lipid 20%, theo dõi sát tình trạng ý thức và huyết động. Sau khi dùng thuốc 15 phút, các triệu chứng lâm sàng khiến bệnh nhân khó chịu hết hoàn toàn. Bệnh nhân được chuyển lên Khoa Dị ứng, Bệnh viện TWQĐ 108 tiếp tục theo dõi và điều trị.
Trường hợp kể trên, bệnh nhân may mắn được cấp cứu đúng cách và kịp thời nên tránh được những hậu quả đáng tiếc. Tuy nhiên, tình trạng ngộ độc thuốc tê luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm (ngộ độc thuốc tê, phản vệ với thuốc tê, hội chứng sợ hãi).
Việc chẩn đoán phân biệt các giả thuyết trên thường dựa vào các triệu chứng đi kèm như: bệnh nhân hoảng sợ, lo lắng quá mức trước khi làm thủ thuật (Hội chứng sợ hãi); bệnh nhân khó thở, thở rít, nổi ban mề đay, ngứa, buồn nôn, đau bụng (Phản vệ với thuốc); còn lại là tình trạng Ngộ độc.
Trong 3 giả thuyết trên thì Ngộ độc lại hay xảy ra nhất, trong khi đó Phản vệ lại hiếm gặp nhất. Vì vậy, khi gặp phải tình huống lâm sàng như trên, chúng ta nên xử trí theo hướng Ngộ độc thuốc kết hợp với các biện pháp hồi sức cấp cứu cơ bản thì khả năng cao sẽ cứu sống được bệnh nhân”.
Ngộ độc thuốc tê nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Vì vậy, việc hiểu biết về những dấu hiệu nhận biết sớm và những biện pháp cấp cứu kịp thời bệnh nhân ngộ độc thuốc tê là rất quan trọng, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh và tử vong.
Để phòng ngừa Ngộ độc thuốc tê, các nhân viên y tế nhất là những người không thuộc chuyên ngành Gây mê-Hồi sức và người bệnh cần lưu ý một số thông tin sau:
Những đối tượng có nguy cơ cao Ngộ độc thuốc tê:
- Trẻ em dưới 6 tháng tuổi
- Bệnh nhân thể trạng nhỏ
- Tuổi cao, suy yếu
- Suy tim, thiếu máu cơ tim
- Bệnh gan
Nhận biết bệnh nhân Ngộ độc thuốc tê:
Hội Gây tê vùng và Giảm đau Hoa Kỳ khuyến cáo, những thay đổi về thần kinh hoặc tim mạch của bệnh nhân khi đang sử dụng thuốc tê, dù liều nhỏ, gây tê theo phương pháp gì, cần nghĩ tới Ngộ độc thuốc tê trước và xử trí theo phác đồ.
- Hệ thần kinh trung ương: Kích thích (bồn chồn, lo lắng, kêu la, giật cơ, co giật); Ức chế (ngủ gà, hôn mê hoặc ngừng thở); Không đặc hiệu (miệng có vị kim loại, tê quanh miệng, nhìn đôi, ù tai, chóng mặt).
- Hệ tim mạch: Giai đoạn đầu có thể có: Tăng huyết áp, mạch nhanh, loạn nhịp thất…; Giai đoạn sau: Tụt huyết áp tiến triển; Block dẫn truyền, nhịp tim chậm, vô tâm thu; Loạn nhịp thất (nhanh thất, rung thất, xoắn đỉnh, vô tâm thu).
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình tiêm và sau khi tiêm. Các triệu chứng ngộ độc trên lâm sàng có thể xuất hiện chậm sau 30 phút hoặc muộn hơn. Cần giao tiếp thường xuyên với bệnh nhân để phát hiện sớm các dấu hiệu ngộ độc.