Cái hay của từ 'lại' trong Mời trầu
Rất nhiều người khi phân tích cái hay của bài thơ này đều dựa vào nội dung huyền sử dân gian về trầu cau từ thời Hùng Vương để bình. Đó là ngày xưa có hai anh em giống nhau như đúc và rất mực thương yêu nhau. Sau khi có vợ, người anh dường như không còn chăm sóc đến em như trước nữa. Buồn bã, người em bỏ nhà ra đi, đi mãi. Tới bên bờ suối thì mệt quá, gục xuống chết, hóa thành tảng đá vôi.
Hồ Xuân Hương có bài thơ tình tuyệt hay:
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
(Mời trầu)
Không thấy em về, thương em nên người anh đi tìm, đến bờ suối thì mệt lả rồi chết, biến thành cây cau mọc bên tảng đá vôi. Không thấy chồng, người vợ cũng bỏ đi tìm. Cũng đến bờ suối đó, mệt quá, ngồi dựa vào gốc cau rồi chết, biến thành cây trầu không. Trầu không, cau và vôi khi quyện lại với nhau tạo ra sắc đỏ như máu. Ba thứ trầu, cau và vôi trở thành biểu tượng tình nghĩa thắm thiết vợ chồng, anh em.
Không ai bình giảng về giá trị của từ “lại” trong bài thơ này. Rõ ràng không thể thay từ “lại” bằng một từ bất kỳ nào khác mà không làm mất đi ý tứ cốt lõi của bài thơ. Vai trò của “lại” trong bài thơ này là gì?
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ cấp cho từ “lại” 14 nghĩa, cả chục nghĩa coi “lại” là từ phụ đứng trước hoặc sau động từ và hàng loạt tổ hợp từ “lại” mang tính thành ngữ. Những giáo trình và sách nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt cũng có nhận định tương tự. Thật ra, tất cả các nghĩa của từ “lại” được hình thành từ một nghĩa gốc về chuyển động của “lại” liên quan đến “đi” trên cơ sở nhận thức (cognition) của người Việt.
Đi là dời khỏi gốc xuất phát, lại là trở về gốc đã ra đi. Có ra đi thì mới có trở lại. Thế là “lại” chuyển thành nghĩa “sự lặp lại”. Do vậy, nghĩa cơ bản của từ “lại” là sự lặp lại (một hành động, một sự kiện hay một thuộc tính). “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại / Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình II, Hồ Xuân Hương). Lặp lại hành động, sự kiện, hay thuộc tính được nhận thức là tạo ra những hành động, sự kiện, hay thuộc tính giống nhau, rộng hơn nữa là sự phù hợp. Do vậy, “lại” được chuyển nghĩa mới thành sự phù hợp. “Đi” là chuyển động mở ra xa dần gốc, không gian mở ra, làm tăng khoảng cách, tầm nhìn giảm dần, còn “lại” là chuyển động trở lại gốc.
Chuyển động về điểm gốc là trở về nơi xuất phát, trở về trạng thái ban đầu. Từ “lại” có một nghĩa mới: trở về trạng thái ban đầu. Giống lúa lai tạo, sau vài thế hệ trở lại như xưa, đó là “lại giống”. Một người qua cơn bạo bệnh sức khỏe trở lại như xưa, ấy là đã “lại người”, “lại sức”, “khỏe lại”. Người miền Bắc đặt sính lễ cưới trong những quả sơn son thiếp vàng mang đến nhà gái. Sau lễ cưới, nhà gái đưa lại nhà trai một phần lễ vật đó, phần lễ vật này trở về nơi xuất phát nên thành cách nói: “lại quả”. Ngày nay, trong các hợp đồng đấu thầu làm ăn kinh tế, cách nói “lại quả” trở thành một ẩn dụ cho bên mời thầu hưởng lợi nhờ bên trúng thầu trả lại một phần lợi ích trái pháp luật (thường bằng tiền bạc) cho bên cung cấp hợp đồng.
Còn “lại hôn” là gì nếu không phải là từ bỏ việc hôn nhân đã đính ước để trở về trạng thái ban đầu? Sau Tết, nói “bánh chưng bị lại gạo” chỉ bánh chưng để một thời gian dài trở nên khô cứng như lúc gạo còn “sống”. Những cách nói: tỉnh lại, trẻ lại, lấy lại tinh thần, nhớ lại, tìm lại họ hàng… Rồi “Cô hồi tưởng lại ba xuân trước/ Trên bến cùng ai đã nặng thề” (Cô lái đò, Nguyễn Bính) cũng được hiểu là trở lại trạng thái đã có như trước kia.
Có ra đi thì mới có trở lại nên “đi” là chuyển động thuận xảy ra trước, còn “lại” là chuyển động ngược trái với “đi” xảy ra sau. Ấy vậy là “lại” có thêm nghĩa đáp trả, phản ứng lại: hòn đất ném đi hòn chì quăng lại, cãi lại, mắng lại, nhạo lại, phê phán lại, đánh lại, bật lại, văng lại… Có đáp trả là có quan hệ sòng phẳng: Có đi có lại cho toại lòng nhau. Ở đời này, “bánh ú trao đi bánh chì trao lại”, có ai cho không ai bao giờ đâu!
Cũng từ đây, “lại” được thêm nghĩa mới, trỏ những hiện tượng lạ lùng, ngược đời. Lẽ thường, càng uống càng say, nhưng Chí Phèo (nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao) không như vậy, hắn ta tức vì chuyện ngược đời này: “Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra” (Chí Phèo). Thực hiện một hành động theo hướng thuận, rồi thực hiện hành động đó theo hướng ngược, cứ vậy sẽ tạo ra ý nghĩa hành động lặp lại nhiều lần: “làm đi làm lại suốt buổi chiều mà vẫn không xong”, “Ông cụ sốt ruột đi đi lại lại”...
Trở về gốc là vận động hướng tâm, khoảng cách được rút ngắn, thể tích, không gian thu nhỏ lại. Thế là “lại” có thêm một nghĩa mới: sự tập trung. Tất cả những hành động cụ thể và trừu tượng nào được nhìn nhận là hướng tâm, tập trung hay thu hẹp khoảng cách và không gian đều kết hợp được với từ “lại” để biểu thị nghĩa này. Nhân Tết cổ truyền, chúng ta nhắc tới tục ăn trầu cau. Miếng trầu gồm: cau, lá trầu không, thuốc xỉa, vôi. Xưa, mỗi nhà thường có “ông bình vôi” đựng vôi để quệt vôi khi têm trầu. “Ông bình vôi” dùng lâu năm cổ vôi thắt lại. Rồi, vun rác lại, gom tiền lại, gấp vở lại, khoanh tay lại, khép chân lại, ngắn lại, nhỏ lại, co lại, má hóp lại, tập hợp lại, nói tóm lại...
Với hiện tượng chuyển nghĩa này, bạn dễ dàng giải thích giá trị không thay thế của từ “lại” trong câu thơ “Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá bạc như vôi”. Trong miếng trầu có cau, vôi bạc, lá trầu xanh, ban đầu là những đối tượng rời nhau với những màu riêng rẽ ấy. Khi thành duyên, chúng gắn kết với nhau. Chính nét nghĩa sự hướng tâm, sự tập trung, khoảng cách bị thu nhỏ của từ “lại” làm cho ‘hắm lại, có nghĩa là hai đối tượng hướng đến nhau không còn khoảng cách mà quyện chặt gắn kết nhau, biểu trưng cho sắc thắm tình yêu thủy chung, son sắt.
Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/van-hoa-giai-tri/cai-hay-cua-tu-lai-trong-moi-trau_107190.html