Cảm hứng 'Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước'
Trà Cổ là một địa danh quen thuộc nhưng không phải ai cũng dễ dàng đặt chân đến, nhất là người phương Nam xa xôi. Và câu thơ quen thuộc của nhà thơ Tố Hữu 'Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước' từ lâu đã thôi thúc chúng tôi một lần đặt chân tới mảnh đất địa đầu Tổ quốc với điểm chót trên cùng hình chữ S.
Từ cội nguồn lịch sử và thiên nhiên kiến tạo
Trên sách báo đã giới thiệu nhiều về Trà Cổ, với bãi biển đẹp trữ tình, bãi đá đen độc đáo, đặc sản biển ngon lạ và những di tích cổ hiếm có như đình, chùa, nhà thờ. Trong bài thơ “Vui thế hôm nay” của nhà thơ Tố Hữu viết mừng ngày Tổ quốc thống nhất cũng có đoạn:
Hùng vĩ thay toàn thân đất nước
Tựa Trường Sơn, vươn tới Trường Sa
Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước
Đỏ bình minh mặt sóng khơi xa.
Một ngày sau khi từ TP Hồ Chí Minh bay ra, lúc bình minh mới chớm hửng, chúng tôi đã rời Thủ đô lên đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh vượt gần 320km lên Móng Cái nghỉ trưa, đầu giờ chiều tiếp tục đi khoảng 10km về phía đông đến Trà Cổ. Kỹ sư xây dựng Đào Vinh Quang cầm lái rất rành tuyến đường này cho hay, trước đây đến Trà Cổ khó khăn vì đường xấu, nay ngoài đường cao tốc thì khách du lịch có thể đến Trà Cổ bằng tàu cánh ngầm đường biển. Nếu đi từ Hải Phòng thì khoảng hơn 200km, còn xuất phát từ Bãi Cháy thì khoảng 130km. Tàu cánh ngầm hoạt động 2 chuyến sáng và chiều mỗi ngày.
Trà Cổ mang lại nhiều cảm hứng trong tôi khi lần đầu đặt chân đến cột mốc số 0km ở mũi Sa Vĩ, tức mũi Gót. Cảm hứng của người phương Nam phía “Cà Mau rừng đước” lên “Trà Cổ rừng dương”. Cảm hứng về một đất nước thống nhất sau những năm chiến tranh đau thương chia cắt. Cảm hứng về sự dũng cảm, kiên cường, hy sinh của cha ông đã khai khẩn, giữ yên cõi bờ từ bao đời nay cho con cháu. Trà Cổ biển trời xanh trong lộng gió. Trà Cổ độc đáo bởi những nếp nhà, công trình kiến trúc cổ. Trà Cổ ngon lành với những đặc sản hiếm có. Nhưng trên hết Trà Cổ là mảnh đất thiêng liêng vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió của Tổ quốc!
Trà Cổ là một doi đất dài chạy theo hướng đông bắc - tây nam, có mặt đông nam nhìn ra vịnh Bắc Bộ, góc đông bắc với mũi Gót này nhìn sang Trung Quốc, còn hướng tây bắc lại trông vào đất liền, góc tây nam ở chân núi Ngọc là mũi Ngọc hướng về đảo Vĩnh Thực. Trước đây Trà Cổ như một hải đảo, vì từ Móng Cái ra đây phải qua một đầm lầy giống như một eo biển nhỏ, mà dân địa phương gọi là sông Trà Cổ.
Thực ra sông Trà Cổ không phải eo biển mà là một chi lưu của sông Ka Long, tức sông Ninh Dương như trong sách “Đại Nam nhất thống chí” có ghi: “Sông Ninh Dương ở cách châu Vạn Ninh 1 dặm về phía tây. Nguồn từ các xã Thượng Lai và Mông Sơn tổng Bát Tràng chảy về đông 37 dặm ven theo địa giới nước Thanh. Rồi chuyển dòng chảy sang phía đông 7 dặm, đổ ra cửa Lạch. Một nhánh chảy về phía nam 5 dặm đến xã Ninh Dương, lại chia làm 2 chi, một chi chảy về phía đông làm sông Trà Cổ, một chi chảy về tây nam 1 dặm đến đông nam núi Hữu Hàn chảy 10 dặm đổ ra cửa Đại”.
Nghĩa là sông Ninh Dương xưa, tức sông Ka Long ngày nay, bắt nguồn từ dãy Thập Vạn Đại Sơn bên Trung Quốc, có một đoạn làm ranh giới tự nhiên cho biên giới Việt – Trung. Khi chảy đến giữa hai phường Ka Long và Trần Phú của thành phố Móng Cái thì sông chia làm hai nhánh. Một nhánh chảy theo hướng đông gọi là sông Bắc Luân, tiếp tục là đường biên giới Việt - Trung, đi qua rìa phía đông bắc phường Hải Hòa, dọc theo rạch Tục Lãm và đổ ra Biển Đông ở cửa Bắc Luân. Còn nhánh chính vẫn gọi sông Ka Long chảy về hướng nam, xuyên qua thành phố Móng Cái, đến xã Ninh Dương xưa lại chia làm hai chi lưu.
Một chi lưu chảy ngoằn ngoèo theo hướng tây nam rồi đông nam và đổ ra biển nơi giáp ranh giữa hai xã Hải Xuân và Vạn Ninh. Chi lưu còn lại chảy về hướng đông tạo nên sông Trà Cổ nay đã bị bồi lấp nhưng lại tạo nên một vùng đất tươi xanh, làng mạc trù phú và phố xá hiện đại đang mọc lên. Trong khi đó, sông Bắc Luân hiện còn là ranh giới phía bắc của phường Trà Cổ với đất Trung Quốc. Trên sông Bắc Luân đã được xây dựng hai chiếc cầu Bắc Luân I và II nối TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam với huyện Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc.
Nhìn từ cội nguồn có thể nói Trà Cổ ngày nay được hình thành từ phù sa bồi đắp của hai dòng sông Trà Cổ và Bắc Luân. Dù đã biến mất nhưng ký ức, di sản của sông Trà Cổ vẫn còn mãi trong lòng người dân bán đảo này. Và hiện nay Trà Cổ là một phường thuộc thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh với bãi cát dài 17km mặt hướng ra vịnh Bắc Bộ, có vị trí hết sức quan trọng đối với an ninh quốc phòng và giao lưu đối ngoại, phát triển kinh tế, du lịch.
“Người Trà Cổ tổ Đồ Sơn” và tầm nhìn minh quân Lê Thánh Tông
Kỹ sư Đào Vinh Quang là người yêu thơ, say mê lịch sử, am hiểu vùng Đông Bắc. Trên hành trình từ Hà Nội, anh nói cho chúng tôi nghe khá kỹ về con người, thiên nhiên và những di tích, thắng cảnh của Trà Cổ. Thiết kế thi công nhiều công trình ở Quảng Ninh nên Đào Vinh Quang am hiểu từng ngõ ngách, phong tục tập quán của vùng đất phên giậu này của Tổ quốc.
Người Trà Cổ tin rằng tổ tiên của họ từ Đồ Sơn (TP Hải Phòng). Điều này không chỉ truyền miệng trong dân gian mà còn thể hiện qua gia phả, thư tịch, di sản văn hóa. Vào thời Hậu Lê có 12 gia đình ngư dân Đồ Sơn đánh cá ngoài biển gặp sóng to gió lớn đã dạt vào bờ. Bấy giờ đây còn là đảo hoang cách biệt đất liền qua vùng đầm lầy sông Trà Cổ. Khi biển yên sóng lặng, 6 gia đình tìm cách quay về Đồ Sơn, vì như câu ca còn truyền: “Ở đây ăn bổng lộc gì/ Lộc sim thì chát, lộc si thì già”. Tuy nhiên, 6 gia đình còn lại thì lạc quan, quyết tâm bám trụ: “Ở đây vui thú non tiên/Tháng ngày lọc nước lấy tiền nuôi nhau”. Họ tìm thấy vẻ đẹp và nguồn sống từ vùng đất lành này.
Đánh cá. Lập làng. Con cháu ngư dân ngày càng đông đúc. Làng biển dần trở nên trù phú. Đình chùa mọc lên. Họ ghép tên hai làng cố hương để đặt tên cho quê mới. Đó là làng Trà Phương và làng Cổ Trai nổi tiếng của kinh đô Dương Kinh xưa, nơi phát tích Vương triều Mạc, nay thuộc huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng.
Đến năm 1461, dưới thời Vua Lê Thánh Tông, ngôi đình Trà Cổ chính thức được xây dựng tại cửa biển với nét kiến trúc đặc trưng đình làng Bắc Bộ, để thờ cúng tưởng nhớ 6 vị tiên công đã có công khai khẩn lập làng. Xây theo hình thái chữ “đinh”, đình Trà Cổ quay về hướng nam, tiền đường gồm 5 gian 2 chái bái đường, hậu cung có 3 gian; mái lợp ngói vẩy, bốn góc đao cong vút như con thuyền rẽ sóng biển khơi. Tại gian chính giữa đình hiện có đôi câu đối:
Đồ Sơn ngật nhĩ kinh hương địa
Trà Cổ nguy nhiên kỷ niệm từ.
Nghĩa là:
“Đồ Sơn là đất cố hương
Trà Cổ xây đình tưởng nhớ”.
Điều này là minh chứng thêm thuyết phục cho nguồn gốc “Người Trà Cổ, tổ Đồ Sơn”.
Đình Trà Cổ được xây dựng nơi biên ải ngoài việc tưởng nhớ các bậc tiền nhân lập làng biển còn cho thấy đó là chiến lược của minh quân Lê Thánh Tông và triều đình bấy giờ. Ngôi đình cũng là cột mốc biên giới, cột mốc văn hóa vùng Đông Bắc. Vị hoàng đế được đánh giá là trị nước giỏi nhất trong lịch sử Đại Việt thời phong kiến luôn chú trọng đến cương thổ tổ tiên để lại. Như sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đã chép, nhà vua thường căn dặn triều thần: “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để ai lấy mất một phân núi, một tấc sông do Vua Thái Tổ để lại”.
Vào năm 1473, với quyết tâm giữ vững toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt, Hoàng đế Lê Thánh Tông còn phán lệnh cho quan viên coi sóc biên giới trước mọi sự lấn chiếm của phương Bắc: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di!”.
Đứng ở “Trà Cổ rừng dương” trong chiều lộng gió, những lời phán truyền của minh quân Lê Thánh Tông thức dậy trong lòng chúng tôi và như âm vang tận “Cà Mau rừng đước” trong một cơ thể thống nhất của giang sơn dòng giống Tiên Rồng!