Cảm thụ văn học: Thu đến, yêu thương về!
Mỗi độ thu sang, lòng người lại như chùng xuống trong những xúc cảm sâu lắng, thiết tha.

Bài thơ 'Chớm thu' là tâm tình với thiên nhiên, với cội nguồn yêu thương. Ảnh minh họa: ITN
Với bài thơ “Chớm thu”, nhà thơ Đoàn Văn Mật mở ra không gian nhẹ nhàng, sâu lắng của khoảnh khắc giao mùa qua con mắt của trẻ thơ vừa là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vừa chất chứa tình cảm thiêng liêng về mẹ, về quê hương và những giá trị truyền thống bền vững theo thời gian.
Thiên nhiên giao mùa
Chớm thu
Đoàn Văn Mật
Không còn tiếng cuốc gọi nhau
Ngỡ mùa hạ đã trốn đâu mất rồi
Bờ sông mẹ giặt áo tơi
Phơi lên đẫm một khoảng trời heo may.
Trầu già giấu nắng đầy cây
Có bông cúc trắng như mây giữa trời
Có con đường cỏ xanh tươi
Có dòng nước lặng chờ người qua sông.
Mùa đơm hạt thóc trên đồng
Đơm thêm bóng mẹ chờ trông tháng ngày
Mùa vui lúa về đường cày
Vẽ nên vóc dáng đôi tay tảo tần.
Từ trong hạt gạo trắng ngần
Là bao hôm sớm ân cần mẹ cha
Từ trong thơm thảo nhành hoa
Là bao tình nghĩa chan hòa đất đai.
Con đường bước đến ngày mai
Dệt từ trang sách dặm dài ước mơ
Dệt từ bóng mẹ, dáng cô....
Cùng bao năm tháng tuổi thơ ngọt lành.
“Chớm thu” là một trong hai bài thơ thiếu nhi của nhà thơ Đoàn Văn Mật được đưa vào sách giáo khoa. Anh từng tâm sự: “Hai bài thơ của tôi được đưa vào sách giáo khoa, đều nằm trong mạch cảm xúc về vùng quê mang đậm dấu ấn tuổi thơ của mình.
Những bài thơ này được hình thành từ những câu chuyện về tuổi thơ, tôi kể cho con nghe, từ những chuyến gia đình tôi về quê, đi thăm thú đồng đất”. Như thế, ngay từ khổ thơ đầu, nhà thơ đã dẫn người đọc bước vào một không gian làng quê giao mùa lãng đãng, yên tĩnh và đầy nỗi niềm hoài niệm:
“Không còn tiếng cuốc gọi nhau
Ngỡ mùa hạ đã trốn đâu mất rồi
Bờ sông mẹ giặt áo tơi
Phơi lên đẫm một khoảng trời heo may”.
Tiếng cuốc, âm thanh quen thuộc của mùa hạ đã lặng im khiến tác giả ngỡ ngàng. Thực ra, khúc giao mùa của đất trời luôn làm lòng người xao xuyến. Tác giả dường như chưa tin được, hay cảm giác chưa quen với sự đổi thay, hay vì nhìn với con mắt của trẻ thơ nên “ngỡ mùa hạ trốn”? Mà kỳ thực, các dấu hiệu của sự chuyển từ hạ sang thu đã dần dần hiện ra. Trước hết, đó là “khoảng trời heo may”.
Cái hay ở đây là, cái heo may đặc trưng của đầu thu ấy được gợi dẫn từ hình ảnh chiếc áo tơi mẹ giặt. Cái ướt át của chiếc áo mới giặt đặt cạnh cái hanh hao của gió không hề chối từ nhau, mà lại “đẫm” trong nhau. Hay nói cách khác, gió thu làm cho chiếc áo mẹ giặt phơi lên được khô nhanh, đến lượt mình, chiếc áo tơi đơn sơ ấy sẻ chia sự ẩm ướt, làm cho tiết trời thu thêm mát mẻ, êm dịu sau một mùa Hè bỏng rát.
Thế là cả hai có sự hòa hợp tuyệt diệu trong cái sắc thu, tình thu rất lãng mạn. Một hình ảnh thơ mang dấu ấn của cách nhìn trẻ thơ nhưng cũng rất tình, rất mộng y như mùa Thu vậy. Những câu thơ tiếp theo tiếp tục phác họa khung cảnh quê hương vào thu với những hình ảnh gần gũi:
“Trầu già giấu nắng đầy cây
Có bông cúc trắng như mây giữa trời
Có con đường cỏ xanh tươi
Có dòng nước lặng chờ người qua sông”
Mỗi hình ảnh đều như một nét chấm phá trong bức tranh thu thôn dã, nơi đó có trầu già, có bông cúc trắng, có con đường cỏ xanh tươi và dòng sông lặng trôi. Cái hay ở đây là, những cảnh vật ấy làm cho bức tranh thu đầy sắc màu tuyệt diệu. Không biết vì nhận ra trẻ con vốn yêu màu sắc hay vì sắc thu quá đỗi đa dạng mà mỗi câu thơ tác giả phác họa mỗi màu sắc như thế!
Đó là sắc xanh đậm hay ngả vàng của những lá trầu già hòa lẫn trong sắc vàng sậm của nắng, cái trắng tinh khôi của bông cúc hòa với cái trắng diệu vợi của mây trời, cái sắc xanh tươi đầy sức sống của cỏ trải dài con đường theo những bước chân. Mỗi cảnh sắc đều dường như có hồn hơn trong tiết thu sang.
Không gian thơ tràn ngập sự sống, nhưng lại mang nét trầm lắng, dịu dàng rất đặc trưng của mùa Thu. Đến cả dòng sông cũng trở mình, trút bỏ cái rực rỡ, xôn xao, ồn ào cười đùa với bọn trẻ tắm, chơi đùa của ngày hè nắng nóng; thay vào đó cái tĩnh lặng, trầm tư nỗi niềm. Hay nói cách khác thiên nhiên không chỉ là phông nền, mà còn là nhân vật đồng hành, chứa đựng tâm trạng và nghĩ suy về những giá trị cuộc sống.
Bài học về giá trị sống
Miêu tả bức tranh mùa Thu, tác giả cũng đồng thời thể hiện sự nghĩ suy và gửi tới chúng ta bài học về giá trị sống trong đời. Hay nói cách khác, cho trẻ ngắm những cảnh vật đặc trưng, những biến chuyển của đất trời, bài thơ cũng dạy cho thế hệ tương lai lòng biết ơn và hành trang vào đời. Bài thơ dần chuyển từ miêu tả khung cảnh thiên nhiên sang quan sát công việc, từ đó thể hiện những suy tư về đời sống con người:
“Mùa đơm hạt thóc trên đồng
Đơm thêm bóng mẹ
chờ trông tháng ngày
Mùa vui lúa về đường cày
Vẽ nên vóc dáng đôi tay tảo tần”
Khổ thơ mở ra không gian đồng ruộng vào mùa lúa chín, mang đậm hơi thở của cuộc sống lao động của mẹ cha. Hình ảnh “mùa đơm hạt thóc trên đồng” không chỉ gợi tả thời điểm lúa chín, mùa thu hoạch bội thu, mà còn là biểu tượng của sự no đủ, thành quả của lao động vất vả. Điệp từ “đơm” giúp ta hiểu rằng, điều làm nên sự no đủ, thành quả của mùa không chỉ là những hạt thóc, mà còn là bao công khó nhọc mẹ làm ra.
Hay nói cách khác, hạt thóc là kết tinh của khí trời thuận lợi, của dinh dưỡng đủ đầy từ đất, phân bón, và đặc biệt là từ bao tháng ngày mẹ bươn chải trên cánh đồng để chăm bón, vun trồng. Cái “bóng mẹ” hiện lên như một phần gắn liền với ruộng đồng, với thời gian. Mẹ không chỉ chăm lo cho mùa màng mà còn lặng lẽ dõi theo, chờ đợi, hy sinh thầm lặng.
Cũng thế “Mùa vui lúa” không chỉ là niềm vui của người nông dân mà còn là sự hồi sinh, sức sống mới của quê hương. Hình ảnh “đường cày” quen thuộc được nhân hóa, trở thành nơi “vẽ nên vóc dáng đôi tay tảo tần” của mẹ, của bao người nông dân cần cù, hiện lên chân thực và cảm động.
Hay nói cách khác, trên cánh đồng có đường cày thực từ một công cụ quen thuộc của nhà nông, cũng có cả đường cày từ bàn tay con người vun xới. Cả khổ thơ là một lời tri ân sâu lắng dành cho người mẹ và những người gắn bó cả đời với đồng đất quê hương. Tiếp nối mạch ý đó, khổ thơ tiếp theo càng giúp ta hiểu hơn về lời nhắn nhủ của nhà thơ:
“Từ trong hạt gạo trắng ngần
Là bao hôm sớm ân cần mẹ cha
Từ trong thơm thảo nhành hoa
Là bao tình nghĩa chan hòa đất đai”
Các hình ảnh thơ gần gũi nhưng hàm chứa chiều sâu ý nghĩa, mở ra những suy ngẫm thấm đượm tình người và tình đất quê hương. “Từ trong hạt gạo trắng ngần”, thứ lương thực quen thuộc trong đời sống hằng ngày ấy là sự kết dệt của lòng tri ân thầm lặng đối với công lao nuôi dưỡng của cha mẹ.
Hạt gạo nhỏ bé, trắng ngần kia là kết tinh của bao mồ hôi, nước mắt, là hình bóng của cha mẹ tảo tần sớm hôm, âm thầm vun vén cho con bằng cả tình yêu thương vô bờ bến. Hơn thế, hình ảnh thơ được mở rộng, chuyển từ mái ấm gia đình ra không gian rộng lớn của thiên nhiên.
“Thơm thảo nhành hoa” không chỉ biểu trưng cho vẻ đẹp thuần khiết mà còn mang trong mình hương vị của nghĩa tình, là kết quả của sự giao hòa giữa con người và đất trời. Bởi thế, từ tình gia đình, ý thơ chuyển sang tình đất quê hương, nơi con người được sinh ra, lớn lên, gắn bó bao năm tháng, dù âm thầm nhưng bền bỉ.
Như vậy, đoạn thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hạt gạo, nhành hoa, mà còn khơi gợi tình cảm thiêng liêng với cha mẹ, quê hương và đất trời, những giá trị đạo lý bền vững trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Hay nói cách khác, gia đình, quê hương là bệ đỡ, nâng bước mỗi chúng ta trên mỗi cuộc hành trình.
Tiếp nối mạch cảm xúc nhẹ nhàng và sâu lắng đó, khổ thơ tiếp theo tiếp tục khắc họa hành trình trên bước đường khôn lớn, bước vào tương lai với những gì thân thương nhất đã âm thầm nâng đỡ, chăm bón:
“Con đường bước đến ngày mai
Dệt từ trang sách dặm dài ước mơ
Dệt từ bóng mẹ, dáng cô...
Cùng bao năm tháng
tuổi thơ ngọt lành”
Nếu như ở trên, hạt gạo và nhành hoa là biểu tượng cho công lao cha mẹ, sự gắn bó với đất đai quê hương, thì đến đây, hình ảnh “con đường bước đến ngày mai” được triển khai rõ nét như một hành trình cụ thể, rõ ràng hơn.
Điệp từ “dệt” cho thấy hành trình ấy không phải là điều xảy ra trong chốc lát, mà là một quá trình tích lũy kiên nhẫn, âm thầm và đầy yêu thương. Trang sách biểu tượng của tri thức khẳng định vai trò quan trọng của học tập, của ước mơ được nuôi dưỡng bằng sự ham học và nỗ lực vươn lên. Nhưng tri thức không thể hình thành trong sự đơn lẻ mà nó được nâng đỡ và phát triển bởi “bóng mẹ, dáng cô”.
Đó là hai hình ảnh gợi nhiều chiều cảm xúc, cũng như mẹ là người nuôi dưỡng thể chất và tinh thần, cô là người gieo mầm tri thức và đạo lý. Hay nói cách khác, cô giáo là mẹ hiền và ngược lại; ở trường và ở nhà là hai môi trường cùng kết hợp vì con, vì trò. Câu thơ ngắn nhưng giàu hình ảnh, mỗi từ đều hàm chứa cả một trời yêu thương, nhắc nhở ta về công lao của gia đình và thầy cô trong hành trình trưởng thành.
Khép lại khổ thơ là hình ảnh “bao năm tháng tuổi thơ ngọt lành” đưa ta về hồi ức đẹp đẽ với tuổi thơ êm đềm bao kỷ niệm. Đó cũng chính là thời điểm để những ước mơ đầu tiên được gieo trồng nơi mảnh đất quê hương, nơi có mẹ cha yêu thương và thầy cô dìu dắt. Như vậy, khổ thơ là một bản hòa ca nhẹ nhàng về tri thức, tình thân và ký ức tuổi thơ, những chất liệu thiêng liêng đã âm thầm dệt nên hành trang cho mỗi con người vững bước vào tương lai.
Hay nói cách khác, từ việc quan sát bước chuyển mùa từ hạ sang thu, cùng những hình ảnh đặc trưng của mùa, nhà thơ gửi tới thông điệp về tình yêu, sự giao hòa của con người với thiên nhiên đất trời; đồng thời là lời nhắn nhủ về lòng biết ơn, lối sống biết trước biết sau chính là một trong những hành trang dẫn mỗi người đến tri thức và thành công.
Tất cả những nội dung đó được chất chứa trong thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ gợi nhớ đến những câu ca dao hay lời ru của mẹ. Bài thơ sử dụng nghệ thuật miêu tả tinh tế với những hình ảnh gần gũi, giản dị nhưng giàu sức gợi. Hình ảnh thiên nhiên “bờ sông mẹ giặt áo tơi”, “bông cúc trắng như mây giữa trời”, hay “con đường cỏ xanh tươi” không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng của làng quê mà còn gợi nên cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng.
Tác giả đã khéo léo vận dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa để làm nổi bật chiều sâu ý nghĩa và bức thông điệp. Dòng nước “lặng chờ người qua sông” hay mùa hạ “trốn đâu mất rồi” đều được nhân hóa, mang theo nỗi niềm và cảm xúc như con người.
Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giàu chất trữ tình, đậm màu sắc dân gian rất hợp với cách cảm cách nghĩ của trẻ thơ. Tất cả đã góp phần làm nên một bài thơ chan chứa tình quê, tình người, đồng thời khơi dậy lòng biết ơn và ước mơ trong tâm hồn mỗi người.
Bài thơ “Chớm thu” đã khắc họa thành công bức tranh đầu thu của quê hương vừa gần gũi, đẹp đầy sức sống, vừa thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc. Qua những câu thơ dung dị, tác giả Đoàn Văn Mật không chỉ tái hiện vẻ đẹp của một mùa quê thân thuộc, mà còn gửi gắm niềm biết ơn đối với công lao sinh thành, nuôi dưỡng của mẹ cha, của quê hương, cùng khát vọng vươn tới tương lai từ những điều bình dị nhất.
Chính sự kết hợp giữa hình ảnh mộc mạc và cảm xúc chân thành đã tạo nên dư âm lắng đọng, gợi nhắc mỗi người, đặc biệt là in sâu trong lòng mỗi trẻ thơ tâm tình với thiên nhiên, với cội nguồn yêu thương, nơi bắt đầu của mọi hành trình lớn trong đời.
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/cam-thu-van-hoc-thu-den-yeu-thuong-ve-post749928.html