Cần 13 tỷ USD/năm để phát triển quy hoạch điện VIII
Đây là thông tin được đưa ra tại buổi giới thiệu về Đề án 'Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045' (Quy hoạch điện VIII) do Bộ Công thương tổ chức ngày 28/9 tại Hà Nội.
Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng cho biết, tốc độ tăng trưởng phụ tải giai đoạn 2021-2030 được dự báo vẫn ở mức cao, khoảng 8,6% giai đoạn 2021-2025 và 7,2% trong giai đoạn 2026-2030.
Dự kiến tới năm 2030, công suất đặt toàn hệ thống dự kiến đạt khoảng 138.000 MW và tới năm 2045 khoảng 302.000 MW, trong đó ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng từng vùng/miền bảo đảm an toàn hệ thống; nhiệt điện than có xu hướng giảm dần, tăng nhanh nhiệt điện khí trong cơ cấu phát triển nguồn điện.
Mức phát thải khí CO2 sẽ giảm dần, đáp ứng các chỉ tiêu mà Việt Nam đã kết kết với quốc tế. Chương trình phát triển lưới điện sẽ được xây dựng để đảm bảo, đáp ứng yêu cầu của từng khu vực. Việc phát triển lưới điện được thiết kế đảm bảo giải tỏa các trung tâm nguồn lớn, các trung tâm năng lượng tái tạo, các nguồn điện gió xa bờ quy mô lớn… Lưới điện nông thôn dần được cải tạo nâng cấp, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân.
Tuy nhiên, để thực hiện được Quy hoạch điện VIII thì phải đối mặt với nhiều thách thức như: các nguồn năng lượng sơ cấp ngày càng khan hiếm. Để đảm bảo cung ứng điện tới năm 2030, Việt Nam dự kiến phải nhập khẩu khoảng 1,2 triệu tấn LNG, 35,1 triệu tấn than vào năm 2025 và tăng dần tới 8,5 triệu tấn LNG và 45 triệu tấn than vào năm 2030; Nhu cầu vốn đầu tư hàng năm cho chương trình phát triển nguồn và lưới điện lên tới khoảng 13 tỷ USD/năm giai đoạn 2021-2030. Đây là áp lực lớn trong khi các tổ chức quốc tế khi xem xét khác khoản tín dụng hỗ trợ phát triển nguồn và lưới điện yêu cầu ngày càng cao về môi trường.
Bên cạnh đó, việc phát triển hợp lý, hài hòa, lưới điện truyền tải, đảm bảo vận hành ổn định hệ thống cần phải được nghiên cứu và xem xét cụ thể. Chính phủ đã có chủ trương cụ thể về triển khai nhập khẩu điện từ các nước trong khu vực. Nhiều biên bản ghi nhớ đã được ký giữa Việt Nam và các nước láng giềng để tăng khả năng nhập khẩu điện tới 2030.
Tuy nhiên, quá trình triển khai nhập khẩu điện chưa đạt được kết quả như mong đợi, làm ảnh hưởng tới việc liên kết lưới điện. Chính vì vậy, trong Đề án lần này, vấn đề liên kết lưới điện đã được Bộ Công thương nghiên cứu kỹ lưỡng và đề xuất các giải pháp triển khai nhằm hiện thực hóa các chủ trương liên kết lưới điện của Chính phủ. Việc này không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện của nước ta trong giai đoạn tới, quan trọng hơn là tạo ra sự liên kết mạnh giữa hệ thống điện Việt Nam và các nước trong khu vực, hướng tới thị trường điện cạnh tranh.
Trong khi đó, phần lớn các nguồn điện này đều tập trung nằm xa trung tâm phụ tải. Vì vậy, công tác phát triển lưới truyền tải để giải tỏa công suất các nguồn điện này đặt ra nhiều nội dung cần xem xét và nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của Đề án chỉ ra rằng xu hướng truyền tải điện sẽ có nhiều thay đổi trong thời gian tới. Thay vì truyền tải điện từ miền Bắc vào miền Nam như những năm qua, chiều truyền tải có xu hướng thay đổi dần theo chiều ngược lại.
Do vậy, Bộ Công thương cho rằng, để giải quyết vấn đề này, nhiều cơ chế chính sách đã được đề xuất như: Cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án điện, cơ chế xã hội hóa lưới điện truyền tải… để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển ngành điện.
Nguồn CAND: http://cand.com.vn/kinh-te/can-13-ty-usd-nam-de-phat-trien-quy-hoach-dien-viii-613407/