Cần chính sách công nghệ cao 'đủ tầm' để thu hút nhà đầu tư chiến lược
Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi), chuẩn bị trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, được kỳ vọng sẽ mở ra cơ chế đột phá thúc đẩy phát triển công nghệ cao trong giai đoạn mới của dất nước. Góp ý dự thảo Luật, các chuyên gia nhấn mạnh: một chính sách cân bằng giữa quản lý Nhà nước và thuận lợi cho doanh nghiệp sẽ giúp Việt Nam sàng lọc đúng đối tượng, củng cố niềm tin và giữ chân nhà đầu tư công nghệ cao.
Luật Công nghệ cao được kỳ vọng tạo đột phá cho đổi mới sáng tạo
Sau khi Nghị quyết 57-NQ/TW được ban hành, Việt Nam đang bước vào giai đoạn hoàn thiện hệ thống pháp luật để hình thành “hạ tầng thể chế” cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Sửa đổi Luật Công nghệ cao được xem là “trụ cột” của chuỗi chính sách này, cùng với hàng loạt đạo luật khác đã và đang được điều chỉnh như Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghiệp công nghệ số hay Luật Trí tuệ nhân tạo…
Dự kiến, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội xem xét, thông qua trong Kỳ họp khai mạc vào đầu tuần tới.
Các chuyên gia cho rằng, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) cần tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, chuyển giao và thương mại hóa công nghệ cao, mà còn để nuôi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ cao, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Đồng thời, hướng tới các mục tiêu quan trọng đã đặt ra trong Nghị quyết 57-NQ/TW như: làm chủ các công nghệ chiến lược; thu hút thêm ít nhất 3 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam…
Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần một tư duy mở trong thu hút công nghệ. Chính sách không nên giới hạn chỉ ở những lĩnh vực mà Việt Nam hiện có khả năng “hấp thụ” hay “nội địa hóa” ở mức độ nhất định.
“Công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ chiến lược, có tính lan tỏa mạnh. Thu hút trước để học, hợp tác và phát triển dần năng lực nội tại là hướng đi dài hơi”, một chuyên gia chính sách nhấn mạnh.
Thực tế, nhiều quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan hay Ấn Độ đều khởi đầu bằng việc thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ đa quốc gia. Nhờ đó, họ hình thành năng lực nghiên cứu, học hỏi quy trình và dần làm chủ công nghệ cốt lõi. Việt Nam, trong những năm gần đây, cũng đã có một số thành công bước đầu khi thu hút các trung tâm R&D của những tập đoàn lớn trong lĩnh vực điện tử, phần mềm và bán dẫn.

Doanh nghiệp FDI công nghệ cao không chỉ mang tới vốn và công nghệ, mà còn lan tỏa tri thức, đào tạo nhân lực. Nguồn: Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh
Rủi ro chính sách khi bỏ Giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao
Một nội dung gây băn khoăn trong dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) là cách xác định doanh nghiệp công nghệ cao và cơ chế ưu đãi đi kèm.
Theo quy định hiện hành, Giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao có thời hạn 5 năm, và ưu đãi chỉ được áp dụng trong khoảng thời gian này. Một số nhà đầu tư cho rằng quy định như vậy thiếu tính ổn định, không phù hợp với nguyên tắc bảo đảm ưu đãi đầu tư lâu dài, khiến họ ngần ngại với các dự án có quy mô hàng tỷ USD và chu kỳ công nghệ dài hạn.
Sửa đổi Luật Công nghệ cao lần này, cơ quan soạn thảo đề xuất bỏ cơ chế cấp Giấy chứng nhận, thay bằng hình thức doanh nghiệp tự đánh giá, tự xác định theo các tiêu chí quy định trong dự thảo Luật. Cách tiếp cận này nhằm mục tiêu cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng lại có thể gây ra “tác dụng phụ”.
“Nhà đầu tư có thể lo ngại nếu tiêu chí đánh giá không rõ ràng hoặc có sự khác biệt trong cách hiểu, cách đánh giá của cơ quan chức năng, đặc biệt là các tiêu chí xác định về công nghệ cao/sản phẩm công nghệ cao trong quá trình hậu kiểm, họ sẽ không được bảo đảm quyền lợi ưu đãi đã tính toán trong phương án đầu tư”, ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế và Pháp lý Deloitte Việt Nam, phân tích.
Bên cạnh đó, theo ông Tuấn, “khi Giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao chỉ có thời hạn 5 năm, nhà đầu tư sẽ khó hoạch định chiến lược dài hạn, đặc biệt với các dự án có quy mô lớn, vốn đầu tư hàng tỷ USD và chu kỳ ứng dụng công nghệ dài hơn 10 - 15 năm”,
Nhấn mạnh tính ổn định và khả năng dự đoán của chính sách là yếu tố then chốt để thu hút đầu tư công nghệ cao, ông Tuấn đề xuất, thay vì bỏ hoàn toàn, Việt Nam nên duy trì cơ chế chứng nhận chính thức nhưng cải tiến linh hoạt hơn, như kéo dài thời hạn chứng nhận, áp dụng công nghệ số trong đánh giá, hoặc rà soát định kỳ theo rủi ro.
Nhiều quốc gia phát triển như Đức, Hà Lan hay Ấn Độ vẫn duy trì hình thức chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao, coi đây là công cụ vừa quản lý, vừa “chứng nhận năng lực” để doanh nghiệp khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ở một số nước, việc được công nhận đi kèm với các ràng buộc tích cực, chẳng hạn như yêu cầu doanh nghiệp duy trì tỷ lệ đầu tư R&D, tạo việc làm chất lượng cao hoặc đóng góp cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
“Các tiêu chí duy trì điều kiện doanh nghiệp công nghệ cao là cần thiết để bảo đảm chính sách ưu đãi đi đúng đối tượng, nhưng cần được thiết kế hài hòa, tránh phân biệt đối xử và không mâu thuẫn với các cam kết quốc tế,” ông Tuấn nói.
Nhắc lại quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết 57-NQ/TW là tạo cơ chế đột phá để gia tăng tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho quốc gia, ông Tuấn nhấn mạnh: “Một cơ chế cân bằng giữa quản lý Nhà nước và thuận lợi cho doanh nghiệp sẽ giúp Việt Nam sàng lọc đúng đối tượng, củng cố niềm tin và giữ chân nhà đầu tư công nghệ cao”.

Việt Nam vẫn cần đẩy mạnh thu hút FDI, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao. Nguồn: TL
“Nối mạch” doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội
Theo PGS.TS. Bùi Tất Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Việt Nam vẫn cần đẩy mạnh thu hút FDI, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sạch. Khi ưu đãi thuế không còn là “vũ khí chính”, thì phải tìm những công cụ khác ngoài thuế, miễn sao đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn so với các đối tác khác.
Ông Bùi Ngọc Tuấn bổ sung rằng để đạt mục tiêu thu hút 40 - 50 tỷ USD vốn FDI mỗi năm đến 2030, chính sách cần hướng tới các dự án có giá trị công nghệ cao, tác động dài hạn đến chuyển đổi kinh tế và phát triển bền vững.
Doanh nghiệp FDI công nghệ cao không chỉ mang vốn và công nghệ, mà còn lan tỏa tri thức, đào tạo nhân lực, nâng chuẩn quản trị trong nước. Thông qua các nhà máy sản xuất, trung tâm R&D và hợp tác với trường - viện, khu vực này góp phần hình thành đội ngũ kỹ sư chất lượng cao và mở rộng chuỗi cung ứng nội địa.
Các chuyên gia khuyến nghị Chính phủ cần đo lường thực chất năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt để xây dựng cơ chế nâng cấp phù hợp. Việc chỉ khuyến khích “nhận chuyển giao” mà thiếu dòng FDI dẫn dắt sẽ khiến nguồn lực bị phân tán, giảm cơ hội phát triển doanh nghiệp nội địa.
Giải pháp được đề xuất là kích hoạt toàn bộ các kênh hỗ trợ: thu hút FDI để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; khuyến khích liên kết nghiên cứu giữa khu vực FDI - doanh nghiệp - trường đại học trong nước; thúc đẩy chuyển giao công nghệ qua các chương trình đồng tài trợ; phát triển cụm công nghiệp đổi mới sáng tạo và quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nội tiếp nhận công nghệ.
“Điểm yếu lớn của khu vực doanh nghiệp Việt Nam là vai trò còn mờ nhạt trong chuỗi giá trị toàn cầu,” ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, nói. Ông đề xuất cần đẩy mạnh các chương trình kết nối cung - cầu, hỗ trợ kỹ thuật, chia sẻ tiêu chuẩn sản xuất để doanh nghiệp nội đạt chuẩn nhà cung cấp, đồng thời hình thành các khu công nghiệp đổi mới sáng tạo, nơi doanh nghiệp lớn - nhỏ, trong và ngoài nước cùng hợp tác phát triển công nghệ.
“Nhà nước cần có vai trò “trung gian thúc đẩy” nhằm tạo ra các mối liên kết bền vững, hiệu quả và cùng có lợi giữa các thành phần kinh tế,” ông nhấn mạnh.