Căn cứ xác định loại đất

*Bạn đọc hỏi: Bà Nguyễn Xuân Lan, trú tại TP Đà Nẵng, hỏi: Tôi có 150m2 đất tại TP Đà Nẵng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là "giấy chứng nhận") và hiện trên đất có nhà tôi đang ở. Tuy nhiên, vừa qua cơ quan chức năng thu hồi đất để thực hiện dự án lại xác định 150m2 đất bị thu hồi của tôi là loại đất trồng cây hàng năm thuộc nhóm đất nông nghiệp và áp giá đền bù theo giá đất nông nghiệp. Vậy cho tôi hỏi việc xác định loại đất và áp giá đền bù như vậy có đúng quy định pháp luật hay không trong khi 150m2 đất của tôi đã có nhà ở trên đất?

*Luật sư Phạm Văn Thanh, Phó Trưởng Chi nhánh Cty Luật TNHH Phạm và Liên danh tại TP Đà Nẵng, trả lời: Hiện nay, theo quy định tại Điều 10 Luật Đất đai 2013, căn cứ vào mục đích sử dụng đất, đất đai được phân thành 3 nhóm như sau: Nhóm đất nông nghiệp (gồm: đất trồng cây hàng năm; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác); Nhóm đất phi nông nghiệp (gồm: đất ở; đất xây dựng trụ sở cơ quan; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất xây dựng công trình sự nghiệp; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất sử dụng vào mục đích công cộng; đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; đất phi nông nghiệp khác); Nhóm đất chưa sử dụng (gồm loại đất chưa xác định mục đích sử dụng).

Theo quy định tại Điều 11 Luật Đất đai 2013, Điều 3 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ, việc xác định loại đất được thực hiện như sau: việc xác định loại đất trước tiên phải căn cứ vào giấy chứng nhận; trường hợp không có giấy chứng nhận thì căn cứ vào các giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 100 Luật Đất đai 2013 hoặc quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (nếu có); trường hợp không có các giấy tờ trên việc xác định loại đất mới được xác định theo hiện trạng đang sử dụng nếu đất được sử dụng ổn định không phải do lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép; hoặc theo nguồn gốc và quá trình quản lý sử dụng đất nếu đất được sử dụng do lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép.

Như vậy, với thông tin bà Lan cung cấp hiện chưa xác định được việc xác định loại đất và áp giá đền bù của cơ quan chức năng như vậy có đúng quy định pháp luật hay không. Tuy nhiên, bà Lan cần lưu ý rằng hiện trạng đất đang sử dụng không phải là căn cứ ưu tiên để xác định loại đất mà chỉ được sử dụng làm căn cứ xác định loại đất nếu không có giấy chứng nhận, không có bất kỳ giấy tờ nào được quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 100 Luật Đất đai 2013, không có quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đất của bà đang sử dụng phải ổn định không do lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép.

Chuyên mục này có sự cộng tác về chuyên môn của Chi nhánh Cty Luật TNHH Phạm và Liên danh tại TP Đà Nẵng. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3572456, 0903573138

Nguồn CAĐN: http://cadn.com.vn/news/75_238264_can-cu-xac-dinh-loai-dat.aspx