Cần đẩy mạnh tiềm năng phát triển vùng trung du và miền núi phía Bắc
Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, định hướng phát triển của vùng vẫn gặp phải nhiều vướng mắc, dẫn đến việc phát triển không đồng đều.
Nhiều tiềm năng phát triển
Vùng trung du và miền núi phía Bắc là một trong 6 vùng kinh tế-xã hội của Việt Nam, bao gồm 14 tỉnh; với tổng diện tích khoảng 100.965km2, chiếm 28,6% diện tích cả nước; tổng dân số 13.853.190 người, trong đó có khoảng 30 dân tộc đang sinh sống, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Đây là vùng đảm bảo về an ninh môi trường sinh thái, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước và quốc phòng, an ninh của nước ta; là vùng “phên giậu" và “lá phổi" của Tổ quốc; là “cội nguồn" của dân tộc và “cái nôi" của Cách mạng Việt Nam.
Nhận định về những tiềm năng phát triển của khu vực trung du và miền núi phía Bắc, PGS, TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết: Vùng trung du và miền núi Bắc bộ là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững như nằm trên hành lang kinh tế Bắc - Nam thuộc hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng; là một trong những cửa ngõ thông ra biên và kết nối với ASEAN của các tỉnh miền Tây Trung Quốc. Đồng thời, đây cũng là vùng có nhiều cửa khẩu với nước láng giềng có thị trường lớn; tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú; có nhiều di sản văn hóa đặc sắc, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong nhiều năm qua, vùng trung du và miền núi Bắc bộ là một trong những vùng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ưu tiên trong chính sách đầu tư và phát triển. Cụ thể là: Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX ngày 1-7-2004 về “Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010" và kết luận số 26-KL/TW ngày 2-8-2012 về “tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 1-7-2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010 đã mở đường cho việc ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút và phân bố các nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng.
Phát huy nội lực, “đánh thức” tiềm năng
Mặc dù là khu vực có nhiều tiềm năng, lợi thế nhưng phát triển vùng trung du và miền núi phía Bắc vẫn còn nhiều hạn chế. Các tiềm năng, thế mạnh chưa được khai thác triệt để, hiệu quả. PGS, TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhận định: “Đây vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp và khoảng cách về thu nhập so với cả nước đang có xu hướng doãng ra. Tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (năm 2018), trong đó tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở mức cao. Nhiều chỉ số về văn hóa, xã hội đạt mức thấp hơn trung bình toàn quốc…
Cũng theo Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn, trong lĩnh vực kinh tế, phát triển của các địa phương trong vùng chưa đồng đều. Các địa phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân sách. Số lượng doanh nghiệp hoạt động thấp nhất trong cả nước; đa phần là những doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp còn chưa mang tính vùng; chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế-xã hội, đang tạo sức ép lớn đối với môi trường. Tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công nghiệp thấp. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia công. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp. Các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân chưa nhiều. Du lịch phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao. Năng lực cạnh tranh của vùng và kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội chậm cải thiện, nhất là kết nối hạ tầng giao thông.
Đề xuất về một số định hướng phát triển, liên kết vùng cho 14 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, đồng chí Hầu A Lềnh, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho biết, về cơ bản chủ trương chính sách đã khá đầy đủ, đã có quy hoạch của quốc gia, từng tỉnh, từng vùng, tuy nhiên vẫn cần có một “nhạc trưởng” để biến quy hoạch liên kết các địa phương, liên kết vùng với nhau trở thành hiện thực. Song song với đó, các chính sách đưa ra cần phải có những điểm những đột phá trong phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ tăng liên kết vùng và thúc đẩy tăng trưởng. Theo Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, Ban Kinh tế Trung ương cần nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ về vấn đề liên kết vùng từ quy hoạch tới cơ sở hạ tầng, đưa giải pháp để hiện thực hóa các quy hoạch sẵn có đó. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò của đào tạo nguồn nhân lực, giải pháp về công nghệ trên phạm vi, quy mô liên kết vùng.
Còn đồng chí Đỗ Đức Duy, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái thì chia sẻ, kinh tế lâm nghiệp là hướng đi của Yên Bái trong 10 năm tới. Do đó, để phát triển bền vững kinh tế lâm nghiệp của vùng cần phát triển lâm nghiệp theo hướng đa mục tiêu là: Kinh tế, xã hội, môi trường. Để phát triển kinh tế rừng, đồng chí Bí thư tỉnh ủy Yên Bái đưa ra 6 kiến nghị cụ thể với Trung ương. Đó là, điều chỉnh mức đơn giá khoán bảo vệ rừng từ 400 nghìn đồng/ha/năm như hiện nay lên 1 triệu đồng/ha/năm cho phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo cho người dân vùng cao yên tâm, tích cực chăm sóc bảo vệ rừng. Nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung chính sách đặc thù cho các địa phương chuyển diện tích rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo kiệt, kém hiệu quả sang trồng rừng gỗ lớn, cây ăn quả,... theo hướng thâm canh, hình thành các vùng trồng tập trung có giá trị kinh tế cao. Xem xét có cơ chế, chính sách đặc thù trong phát triển, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước và phát triển kinh tế-xã hội. Tiếp đó là xem xét, có cơ chế, chính sách đặc thù trong phát triển đẩy mạnh xã hội hóa nghề rừng, giao đất, giao rừng. Nghiên cứu có cơ chế, chính sách huy động nguồn lực của vùng có chung lợi ích cho việc bảo vệ, phát triển rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp của vùng. Và cuối cùng là, sớm có chỉ đạo định hướng chung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai tại các nông, lâm trường; xử lý dứt điểm các vướng mắc liên quan đến việc cổ phần hóa các công ty lâm nghiệp.
Có cùng quan điểm, đồng chí Vừ A Bằng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên nhấn mạnh, để tiếp tục khai thác tiềm năng, thế mạnh phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội của địa phương hướng tới sự phát triển bền vững cho cả vùng trung du và miền núi phía Bắc nói chung và của tỉnh Điện Biên nói riêng, các tỉnh trong vùng cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của liên kết vùng, tập trung khai thác thế mạnh của từng vùng để bổ trợ lẫn nhau cùng phát triển; tiếp tục kiến nghị Trung ương có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư vào các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng; thực hiện tốt công tác bảo tồn sinh thái, giữ gìn văn hóa, đảm bảo an ninh chính trị, an ninh biên giới.
Cùng với đó, các tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư. Đồng thời, các tỉnh trong khu vực cần tích cực vận động, tăng cường phối hợp trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại để tạo sức lan tỏa chung, nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến.