Cảnh báo thế giới hậu Covid-19 từ cuộc chiến đằng đẵng của Nhật Bản
Nhiều năm hồi sức sau khi vỡ 'bong bóng kinh tế' ở Nhật Bản vào đầu những năm 1990 đã trở thành nền tảng cho cơn bão giảm phát cuối thập kỷ đó. Tin xấu cho Nhật Bản và có thể là tiền lệ với nhiều quốc gia khác là nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới lúc này vẫn đang vật lộn để giá cả tăng trở lại.
Theo lời cựu trưởng phòng nghiên cứu kinh tế của Bộ kinh tế Nhật Bản, Takao Komine, cho đến khoảng năm 1997, người Nhật nghĩ rằng quốc gia đã có thể lấy lại phong độ kinh tế của mình, "nhưng cuộc khủng hoảng tài chính và tăng thuế đã phá tan những hy vọng đó".
Điều gây lo ngại là một kịch bản tương tự cũng bắt nguồn từ các nền kinh tế phát triển khác sau nhiều năm tăng trưởng giá ở mức thấp. Theo kịch bản đó, đại dịch lúc này đang thổi "hơi nóng" giảm phát, khi mọi người ngừng mua mọi thứ từ đồ gia dụng đến nhà mới, vì tâm lý cho rằng chúng sẽ rẻ hơn trong tương lai.
Và như kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, thậm chí với hàng thập kỷ lãi suất gần bằng 0 cũng như nới lỏng định lượng, vẫn chưa đủ để xoay chuyển suy nghĩ đó của người tiêu dùng.
Tiền lương là một tín hiệu khác về nguy cơ giảm phát. Nếu giá giảm khiến người tiêu dùng trì hoãn chi tiêu và các công ty có lý do hoãn đầu tư, tiền lương thấp hơn có thể trở thành một phần trong chu kỳ tiêu cực này.
Mức sụt trung bình của tăng trưởng tiền thương 6 tháng ở Nhật Bản lần đầu tiên xuống dưới 0 vào giữa năm 1998, và đã không trở lại mức tích cực trong gần 7 năm sau đó.
Chi phí dịch vụ cũng là một kênh khác để xem xét, bởi vì trong khi biến động giá cả hàng hóa có thể làm phức tạp việc định hình xu hướng giá, giá dịch vụ phản ánh chặt chẽ hơn tình trạng cơ bản của thu nhập và nhu cầu của nền kinh tế. Giá dịch vụ ổn định cho thấy áp lực với lạm phát mạnh mẽ và ngược lại.
Cựu chuyên gia kinh tế trưởng Kazuo Momma của Ngân hàng Nhật Bản cho biết, việc thiếu sự dịch chuyển trong giá dịch vụ là một trong những bằng chứng quan trọng cho thấy tâm lý giảm phát. "Sau nhiều năm không có lạm phát, người dân Nhật Bản coi giá là một thứ gì đó ít nhiều giống nhau. Một khi quan điểm đó đã ăn sâu, gần như không thể thay đổi nó".
Bên cạnh đó, dân số thu hẹp và già hóa của Nhật Bản cũng là một yếu tố được các nhà nghiên cứu và chuyên gia kinh tế chú trọng để lý giải cuộc chiến giảm phát của nước này. Xét về mặt nhân khẩu học, triển vọng của châu Âu cũng không mấy tích cực hơn.
Tăng trưởng dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản dự kiến sẽ giảm thêm vào năm 2040. Theo một báo cáo của IMF vào tháng 3 vừa qua, điều này có thể hạn chế hơn nữa vai trò của chính sách tiền tệ trong việc phản ánh nền kinh tế.
"Nếu giảm phát không suy chuyển, Chính phủ và Ngân hàng T.Ư phải phối hợp chặt chẽ và mạnh mẽ", Paul Sheard, chuyên gia cấp cao tại Trường Kennedy của ĐH Harvard, người đã nghiên cứu kinh tế Nhật Bản hơn 3 thập kỷ, nói.
Cho đến trước khi đại dịch xảy ra, cán cân ngân sách của Nhật Bản được cho đã có sự cải thiện dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe nhờ tăng thuế và mở rộng kinh tế. Tuy nhiên, "sai lầm lớn hiện nay của Thủ tướng Shinzo Abe là tăng thuế doanh thu 2 lần khi BOJ đang làm tất cả những gì có thể để tăng giá", ông Paul nói, "nếu mục tiêu là chấm dứt giảm phát và bảo đảm lạm phát thấp, thì đây là một cách tiếp cận sai lầm".