Câu chuyện quê hương

Chuyện ở Hướng Phùng

Qua lại xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, nhiều lần cũng đinh ninh mình biết khá rõ vùng này. Ai dè...

 Đạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng (người đội mũ) trong một lần trở lại Vĩnh Linh. Ảnh: Thạch Thảo

Đạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng (người đội mũ) trong một lần trở lại Vĩnh Linh. Ảnh: Thạch Thảo

Một sáng gần đây khi làm phóng sự ở chợ Hướng Phùng như mấy lần trước thì một người dân tình cờ đi qua, bất chợt hỏi tôi : “Anh có biết tấm bia kia không?”- “Tấm bia nào vậy?”, tôi ngạc nhiên, hỏi lại. Anh ấy chỉ tay rồi tất tả bước đi có vẽ vội vàng theo việc.

Tôi theo hướng anh chỉ, đến gần mới thấy một tấm bia khá lớn. Lạ thật, mình qua lại đây bao lần mà sao không để ý đến nó. Những dòng chữ trên tấm bia cho biết đây là câu chuyện xảy ra vào năm 1978 khi những người trong cuộc thực hiện một nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng và lặng lẽ, để lại một tự sự nhất thiết phải kể cho hôm nay và cả mai sau...

Sau ngày nước nhà thống nhất, trong ngổn ngang cả núi việc thời hậu chiến nhưng Chính phủ vẫn không hề quên trọng trách quốc gia ở vùng biên viễn. Năm 1977, sau khi ký Hiệp ước hoạch định biên giới hai nước Việt-Lào thì một nhiệm vụ được đặt ra là phải cắm cột mốc biên giới. Nhưng đây lại là công việc rất khó khăn, phức tạp và nguy hiểm.

Đại tá Nguyễn Văn Lưu, nguyên Chính ủy Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh Thừa Thiên-Huế (vào thời điểm câu chuyện xảy ra thì tỉnh Bình Trị Thiên chưa chia tách), đã kể lại hồi ức của mình về những năm tháng không thể nào quên. Đại tá Lưu nói như đinh đóng cột đường phân thủy biên giới ở trên những đỉnh núi cao toàn là 1.000 mét trở lên với địa hình cực kỳ hiểm trở, hơn thế dày đặc bom mìn vì Quảng Trị vốn là “túi bom” trong chiến tranh, chưa kể đến khí hậu khắc nghiệt, sốt rét ác tính đã từng quật ngã nhiều người như lực sĩ. Nhiệm vụ gian nan này dĩ nhiên trước hết đặt trên vai những chiến sĩ Biên phòng.

Đại tá Lưu nhớ lại: Tháng 8 năm ấy, thời tiết không thuận. Ngày 11/8/1978, trời mưa to, sông suối dâng cao nhưng Đồn Biên phòng Sen Bụt (nay thuộc xã Hướng Phùng) nhận được lệnh đưa đoàn khảo sát song phương của Chính phủ hai nước lên phúc tra tọa độ mốc chuyển hướng đường biên giới trên đỉnh Tà Púc để kịp thời phục vụ hội đàm hai nước khi đánh giá phân định biên giới thí điểm. Đồn trưởng Hồ Mường họp toàn đơn vị, hỏi ai xung phong. Nhiều cánh tay đưa lên, đồn chọn sáu người làm nhiệm vụ giữa lúc thời tiết đang trực tiếp đe dọa đến nhân mạng. Đồn Biên phòng Sen Bụt cấp tốc huy động toàn bộ lực lượng chặt cây bắc ngang qua suối làm đường đi cho đội sáu người băng qua để kịp gặp đoàn trung ương vừa đến vị trí tập kết. Những lúc ngớt mưa, cả đội khẩn trương lên điểm cao thực hiện các thao tác nghiệp vụ như đo tọa độ, tính góc phương vị... Xong việc đội vội vã xuống núi thì trời lại mưa to và tối mịt như cảnh tượng thường thấy ở núi rừng. Vậy là họ dừng lại che lán ngủ ở phía dưới động Tà Púc. Và tai họa đã ập đến bất ngờ. Nửa đêm lũ quét đã cuốn phăng lều trại và năm người vĩnh viễn ra đi. Đó là các người lính gồm Thượng sĩ Hồ Văn Trường, Trung sĩ Châu Văn Dung, Đại úy Võ Cán, Đại úy Võ Xuân Tăng. Đặc biệt có một người không phải là lính nhưng anh dũng hy sinh như một người quân nhân ngay giữa thời bình, đó là kỹ sư Lê Doãn Tường, công tác tại Cục Bản đồ nhà nước, quê ở Thọ Xuân (Thanh Hóa). Đại tá Nguyễn Văn Lưu xúc động từ hồi ức: “Khi đưa thi hài các đồng chí hy sinh ra xe ô tô, bà con các bản ở xã Hướng Phùng chạy theo cáng khóc nức nở. Ngày 15/8/1978, tại thị trấn Khe Sanh, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị, lễ truy điệu và an táng các liệt sĩ đã hy sinh trong quá trình khảo sát, phân giới cắm mốc đường biên giới quốc gia đã được tổ chức trong niềm thương xót của mọi người”.

Tên của các anh đã được lưu danh trên tấm bia ở xã Hướng Phùng. Người dân địa phương đã không quên những liệt sĩ trong suốt hơn 40 năm qua. Khi tôi hỏi chuyện tấm bia, thầy giáo Nguyễn Mai Trọng, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hướng Phùng nói: “Kể từ khi tôi về đây làm hiệu trưởng, năm nào vào dịp 22/12 trường cũng tổ chức buổi tưởng niệm những liệt sĩ cắm mốc biên giới ngay trước tấm bia này. Tôi thiết nghĩ đó là cách tri ân và giáo dục truyền thống thiết thực, cụ thể, khơi dậy tinh thần vì chủ quyền biên giới, biển đảo thiêng liêng trong thầy trò”.

Trở lại Vĩnh Linh

Nhà thơ Nguyễn Duy nổi tiếng cả nước thì có lẽ quá nhiều người biết. Nhưng duyên nợ văn bút Quảng Trị với thi sĩ xứ Thanh thì không phải ai cũng tỏ tường.

 Bia liệt sĩ hy sinh năm 1978 khi cắm cột mốc biên giới tại xã Hướng Phùng, trong đó có liệt sĩ Lê Doãn Tường, người quê Thanh Hóa. Ảnh: Thạch Thảo

Bia liệt sĩ hy sinh năm 1978 khi cắm cột mốc biên giới tại xã Hướng Phùng, trong đó có liệt sĩ Lê Doãn Tường, người quê Thanh Hóa. Ảnh: Thạch Thảo

Vào lính thời đánh Mỹ, Nguyễn Duy là bộ đội thông tin nhiều năm tham gia mặt trận Đường 9 Nam Lào. Nhiều bài thơ được ra đời trong những tháng ngày trận mạc ở xứ sở gió Lào cát trắng. Có tác phẩm đã góp phần đưa ông lên bậc vinh quang được sáng tác từ mảnh đất này, như thi phẩm “Bầu trời vuông” năm 1972 cùng với hai bài thơ khác đã giúp ông giật giải nhất Báo Văn nghệ danh giá lúc bấy giờ, năm 1973. Quảng Trị như tự bạch bằng thơ của người lính Nguyễn Duy bằng các địa danh đã hóa thơ: “Nhận được thư ở Đông Hà”, “Cô gái Hải Lăng”, “Bà mẹ Triệu Phong”, “Bên hàng rào Ái Tử”, “Bát nước ngô của bà mẹ Việt ở Cam Lộ”... mới đọc tên thôi đã chan chứa ân tình. Và bài thơ quen thuộc trong sách giáo khoa của ông “Tre Việt Nam” với nhiều thế hệ học sinh: “Tre xanh, xanh tự bao giờ/ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh/ Thân gầy guộc, lá mong manh/Mà sao nên lũy nên thành tre ơi...”.

Tôi cũng có vài dịp nghe Nguyễn Duy đọc thơ ở Huế, nhưng không hề nghĩ sẽ thấy ông xuất hiện ở Quảng Trị với vai trò khác. Nhưng rồi chuyện ấy đã xảy ra...

Vào năm 1967, bác sĩ Nguyễn Thị Xuân Phượng được mời sang phủ Chủ tịch nước. Đến nơi gặp mới biết Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa tiếp đạo diễn phim tài liệu nổi tiếng người Pháp gốc Hà Lan Joris Ivens có vợ là Loridan, một tù nhân của trại tập trung phát xít Đức. Hồ Chủ tịch trân trọng giới thiệu họ là “Những nhà điện ảnh cách mạng nổi tiếng”. Bà Phượng được cử làm phiên dịch đi cùng đoàn làm phim vào Vĩnh Linh thực hiện cuốn phim “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh nhân dân”. Hai tháng ở Vĩnh Linh, sống và chiến đấu như những người lính với biết bao nguy hiểm, với nhiều kỷ niệm quý giá. Đến khi phim đưa ra Hà Nội, dọc đường bị ném bom, cuốn phim cũng thấm máu của những nhà làm phim. Bộ phim được công chiếu ở nước ngoài đã gây được tiếng vang và được dư luận thế giới chú ý. Sau chuyến đi này, số phận của bà Xuân Phượng đã rẽ sang hướng khác, trở thành nữ đạo diễn phim tài liệu chuyên nghiệp hiếm hoi như gợi ý và mong mỏi của đạo diễn Ivens. Với nhiều cống hiến cho giao lưu văn hóa Việt-Pháp, bà Xuân Phượng đã được chính phủ Pháp tặng thưởng Huân chương cao quý Bắc đầu bội tinh.

40 năm sau, vào năm 2007, bà Xuân Phượng trở lại Vĩnh Linh với mong muốn thực hiện bộ phim về những nhân vật đã từng xuất hiện trên màn ảnh cách đây nửa thế kỷ. Điều này còn nhằm thỏa ước nguyện của đạo diễn Ivens trăng trối với vợ trước lúc qua đời: Hãy tìm về với những nhân vật trong phim của Vĩnh Linh ngày trước. Nhà thơ Nguyễn Duy được mời làm biên kịch của bộ phim này với tên gọi “Trở lại Vĩnh Linh”. Với ông, vốn từng là người lính, đây cũng là dịp làm sống dậy những ký ức chiến tranh của một thời trai trẻ và của cả dân tộc này một thời bi tráng. UBND tỉnh Quảng Trị đã tổ chức buổi tiếp đoàn trọng thị và được nhận bộ phim tài liệu “Vĩ tuyến 17-chiến tranh nhân dân” của đạo diễn Ivens do bà Xuân Phượng tặng. Tôi và một đồng nghiệp ở Đài PTTH tỉnh Quảng Trị đã được cử đi theo đoàn suốt mấy ngày trên đất Vĩnh Linh. Sau bao nhiêu vất vả và kiếm tìm, đoàn làm phim cũng đã đạt được tâm nguyện của mình.

Cuộc đời, như người ta vẫn nói, đã mỉm cười với những còn người luôn làm việc hết mình và biết sống thủy chung.

Thạch Thảo

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/default.aspx?tabid=73&modid=420&itemid=146469