Cha tôi là người lính

Không riêng làng Đại Hộ mà cả xã Đại Nghĩa hôm nay xôn xao hẳn lên. Dân trong ngõ, ngoài làng kháo nhau kéo đến khá đông khi hay tin cha tôi trở về. Cuối những năm 60 của thế kỷ trước, cha tôi nằm trong đội hình tình nguyện xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước rồi bỗng dưng thất lạc không rõ tung tích. Mẹ lấy ngày đất nước thống nhất làm ngày giỗ cha tôi.

Chính tôi lúc đầu cũng không tin người đàn ông râu quai nón, nói giọng nằng nặng, khê khê, liên tục rít thuốc lào đang ngồi ở trong nhà kia là cha của mình. Mẹ tôi đi ra, đi vào tíu tít mời chào và đỡ lời khi có người lại gần thăm hỏi cha tôi. Trông mẹ như trẻ ra. Bao năm nay, mẹ cất giấu nụ cười vào trong gan ruột, cứ âm thầm làm lụng thờ chồng, nuôi con. Nhưng hình như trong lòng bà không tin là cha tôi đã mất vì ngoài tờ giấy báo tử gửi về địa phương thì không có thêm bất cứ thông tin nào của cha tôi từ phía những người trở về.

 Minh họa: HIỀN NHÂN.

Minh họa: HIỀN NHÂN.

Bác Chiến - người anh họ xa của cha tập tễnh chiếc chân giả dắt tay ông giới thiệu với từng người. Gương mặt cha lúc thì ngơ ngác, lúc lại ầng ậc nước. Hình như cha đang cố nhớ lại hình ảnh của từng người hồi mới chia tay... Đây là ông Thà “trâu”, kia là ông Chánh, bạn đánh khăng từng bị cha phang cả chiếc khăng vào mũi trong một trận không phân thắng bại. Còn đây là bà Út còi, bạn thanh mai trúc mã của cha, chỉ vì gầy yếu quá mà bà nội tôi không đồng ý cho họ nên duyên vợ chồng...

Mang truyền thống của vùng quê "sơn quả bưởi làm thủy lôi đánh giặc", bác Chiến và cha tôi thẳng tiến vào chiến trường. Họ được điều động đến vùng Tây Nguyên và Nam Lào chiến đấu. Hai anh em đều bị thương trong hai trận đánh khác nhau. Bác Chiến bị thương nặng hơn phải chuyển ra Bắc rồi phục viên. Cha tôi ở lại và được điều vào một đơn vị coi kho giữa bạt ngàn Trường Sơn hùng vĩ...

… Người cùng về với cha tôi có cái tên rất lạ: Yrak. Anh có nước da nâu rắn rỏi, mái tóc xoăn tự nhiên đen như gỗ mun càng tôn lên vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc mà hết sức mạnh mẽ, kiên cường của người Tây Nguyên. Bằng chất giọng trầm đục, lơ lớ tiếng Kinh, Yrak kể lại cuộc gặp gỡ định mệnh của gia đình họ với cha tôi. Lúc ấy là đầu mùa khô năm 1971. Tổ của Cường có 3 người, bảo vệ cả một hệ thống kho lương thực dự trữ cho bộ đội giữa rừng sâu. Mùa khô, Tây Nguyên thiếu nước trầm trọng.

Đơn vị ở trong một hẻm núi, phải đi thật xa mới tìm được nguồn nước. Hôm ấy đến lượt Cường cùng Hùng đi lấy nước. Họ vừa xuống suối lấy được mấy bi đông và mấy ống nước khoác lên vai thì gặp một tốp địch đang phục kích bên kia suối. Hai người chỉ kịp đánh tín hiệu cho nhau rồi tản ra trước khi bọn chúng nổ súng. Từng làn đạn đuổi theo trên đầu. Đang chạy, bỗng Hùng khựng lại, chúi về phía trước, Cường ý thức ngay rằng bạn mình đã bị thương.

Nhả một tràng AK dài, ông vòng sang, ôm vào lưng người đồng đội kéo đi. Hùng đẩy Cường ra, quát ông chạy đi để mình dụ quân địch tập trung hỏa lực về phía mình, song Cường không đồng ý. Nhưng rồi chính ông bị một viên đạn găm vào bắp chân và một viên khác vèo qua chẻ đôi vành tai trái. Biết là dắt díu nhau sẽ hy sinh vô ích, Hùng đẩy Cường ngã nhào xuống khe núi còn mình lăn sang hướng khác và chĩa súng bắn về phía địch, kéo sự chú ý của chúng về phía mình. Cường lăn tòm vào một hốc đá đầy dây leo chằng chịt, mơ hồ nghe tiếng súng nổ từ phía xa...

Mất hai ngày sau ông mới leo được ra khỏi hốc đá với những vết thương đã bắt đầu tấy mủ. Kinh nghiệm ở rừng cho thấy bọn địch chưa thể rút đi khỏi nơi mà chúng đã phát hiện khi chưa thấy hết lực lượng của ta. Đề phòng sập bẫy lũ biệt kích giăng sẵn trong trường hợp Hùng hy sinh hoặc bị bắt, Cường quanh quẩn gần hốc đá thêm vài ngày nữa. Những ngày đó, Cường nhai lá rừng làm thuốc đắp lên vết thương đang bị nhiễm trùng.

Bới đất tìm củ rừng ăn lấy sức qua ngày. Vết thương nhức nhối khiến toàn thân lên cơn sốt bỏng rát. Mấy viên thuốc dự phòng luôn đeo bên người và giữ gìn như của gia bảo đến giờ mới được sử dụng. Thêm vài ngày nữa trôi qua, Cường lần mò về nơi đã xảy ra cuộc đụng độ. Cắn chặt môi ghìm cơn đau, ông vạch từng cành lá, rẽ từng hốc cây, bụi cỏ để tìm người đồng đội với hy vọng tìm được xác nếu Hùng hy sinh. Đói, khát, đau đớn khiến Cường ngất lên, ngất xuống...

Rồi Cường cũng tìm thấy Hùng ngay dưới gốc cây xà nu cổ thụ. Thân hình Hùng rách nát bởi nhiều vết đạn. Quần áo bị lột bỏ. Trên ngực Hùng có mảnh giấy ghi dòng chữ “Bộ đội Bắc Việt hãy nhìn đây!” được chèn bởi một viên đá to. Cường thận trọng quan sát rồi bò xung quanh chỗ Hùng nằm. Bọn chúng không gài lựu đạn và cũng đã bỏ đi xa vì thân thể Hùng đã bốc mùi.

Ông nâng đầu Hùng lên, khóc rưng rức. Tìm mãi mới thấy chiếc áo của bạn bị bọn giặc ném lên cành cây, nhưng không thấy chiếc quần đâu, Cường bèn cởi chiếc quần dài rách tướp của mình mặc cho Hùng. Mắt ông như lồi ra khi nhặt tờ giấy chúng để lại trên thi thể người đồng đội. Ông bặm môi, gấp nhỏ tờ giấy nhét sâu vào gấu áo.

Không biết phải mất bao lâu ông mới làm xong phần mộ cho người đồng đội. Hòn đá chèn ngực Hùng được ông chôn ngay dưới chân để đánh dấu. Cường không đủ sức bồng súng đứng dậy tiễn biệt người bạn chiến đấu mà cứ thế đổ ập lên phần mộ mới đắp... Tỉnh dậy, Cường nhằm hướng mặt trời lết đi. Lại tiếp tục rau rừng, củ rừng để lấy sức tìm về đơn vị.

Một mình giữa rừng sâu lê lết, ẩn náu tránh kẻ thù làm Cường mất phương hướng. Lê mãi, lê mãi, ông đến được khu rẫy bỏ hoang của một người Ê đê. Kiệt sức, ông gục xuống mê man… Mở mắt khi có ai đó đập mạnh vào vai mình, phản xạ tự nhiên, Cường vồ lấy cây súng nhưng không nâng nổi nó lên. Người phụ nữ cúi xuống nâng đầu Cường và đặt bát nước vào miệng ông. Cường uống một hơi hết sạch bát nước rồi thều thào xin thêm bát nữa nhưng người đàn ông đi cùng xua tay bảo người phụ nữ không cho uống nữa. Họ dìu Cường vào lều nương gần đó. Hai người hỏi gì Cường cũng lắc đầu.

Giống như Cường, hai người cũng lắc đầu nguầy nguậy. Phải đến khi ông ra hiệu bảo họ mang cây súng lại gần, chỉ vào ngôi sao và hàng chữ cái tên ông khắc ở báng súng, họ mới tỏ ra hiểu ý. Họ lại trao đổi với nhau, Cường thấy người phụ nữ mang cho mình nắm cơm nhỏ thì ứa nước mắt. Bà bẻ nắm cơm cho vào bát và đổ nước vào, lấy tay bóp nát rồi mới đưa lại cho Cường. Sau bao ngày đói khát tưởng chừng không gượng dậy nổi, giờ mới lại được húp nắm cơm nát mà vợ chồng người Ê đê đưa cho.

Ông lấy tay chỉ vào ngực mình tỏ ý biết ơn họ. Vợ chồng họ đưa Cường về bản. Tai trái của ông hầu như không còn nghe thấy tiếng động. Mỗi khi phải suy nghĩ điều gì hoặc thời tiết thay đổi làm ông đau đớn như có hàng ngàn con ong kéo đến châm chích trong não. Thỉnh thoảng ông lại lên cơn động kinh, la hét om sòm, miệng không ngớt gọi Hùng ơi! Hùng ơi!...

... Nghe Cường bày tỏ nguyện vọng trở lại tìm đơn vị, vợ chồng Yrut buồn lắm, họ cố nói cho ông hiểu:

- Không được đâu, chân bộ đội Cường còn yếu lắm, chưa đi xa

được đâu.

- Bộ đội biết ơn Yrut và Hbang nhiều lắm, nhưng bộ đội phải về đơn vị thôi. Bộ đội còn phải đi đón thằng Hùng nữa!

- Bộ đội Cường cứ ở đây, khỏi chân, mình sẽ cùng đi đón bộ đội Hùng mà...

Yrak lúc ấy còn nhỏ nhưng đã biết thương bộ đội Cường. Nó khóc:

- Bộ đội Cường phải ở lại đi đặt bẫy với Yrak cơ!

Biết có nằn nì cũng không được. Cường đành nín lặng. Chiến tranh ngày càng ác liệt. Bản của Yrut dời mãi lên núi cao. Cường cũng phải dời đi theo họ. Nhiều lần Yrut cùng ông đi tìm mà không thấy cánh rừng nơi đơn vị ông đóng quân. Càng không thể tìm được nơi đã an táng Hùng trong điều kiện chiến tranh khốc liệt làm biến dạng địa hình, địa vật. Tờ giấy bọn địch để lại bên thi thể Hùng vẫn được Cường cất giữ cẩn thận. Vậy mà…

Giải phóng đã mấy năm mà bản của Yrut vẫn không hay biết. Họ vẫn du cư lên núi cao. Cường được vợ chồng Yrut cưu mang chữa khỏi các vết thương, nhưng viên đạn sượt qua tai lạc vào đầu thì không lấy ra được. Trí nhớ của ông giảm rất nhanh. Đến khi thạo tiếng của dân bản thì những hình ảnh về quê hương cũng mờ nhạt trong đầu...

Tình cờ, một hôm bác Chiến xem truyền hình phát phóng sự về một người thương binh làm giàu bằng nghị lực kiên cường nhưng do không nhớ quê quán, số hiệu đơn vị chiến đấu, không giấy tờ tùy thân, chỉ giữ duy nhất một tờ giấy nhặt được trên người đồng đội lúc hy sinh, hiện làm con nuôi của một bản Ê đê ở tỉnh Đăk Nông. Như có linh tính mách bảo, bác vội ghi lại địa chỉ của người thương binh và nhanh chóng thu xếp vào Đăk Nông…

Nhờ sự tận tình của cha con Yrut, cha tôi đã tìm lại được nơi mai táng chú Hùng và đã đưa chú về an nghỉ trong vườn nhà mình dưới bạt ngàn cà phê, hồ tiêu xanh mướt mát. Căn nhà của cha tôi luôn sực nức hương thơm của hoa, quả bốn mùa. Ngôi nhà của chú Hùng cũng vậy. Màu trắng của hoa cà phê, màu vàng của dã quỳ, màu đỏ của đất bazan mang lại cho họ sự thanh thản đến lạ lùng.

Truyện ngắn của Vũ Kim Liên

Nguồn Bắc Giang: http://baobacgiang.vn/cha-toi-la-nguoi-linh.bbg