Chắc tiếng Việt sáng ước mơ

Thời gian qua, Đề án 'Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025' đã được ngành giáo dục tỉnh triển khai bài bản, linh hoạt, giúp học sinh vùng dân tộc thiểu số (DTTS) tự tin học tập, phát triển kỹ năng.

Giáo viên hướng dẫn học sinh tiểu học đọc sách tại thư viện Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học - THCS Liên Hội, huyện Văn Quan

Giáo viên hướng dẫn học sinh tiểu học đọc sách tại thư viện Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học - THCS Liên Hội, huyện Văn Quan

Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non và học sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025” được triển khai từ năm 2016 theo Quyết định số 1008/QĐ-TTg, ngày 2/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ, nội dung đề án đã trở thành nhiệm vụ quan trọng trong hành trình nâng cao chất lượng giáo dục vùng cao.

Linh hoạt trong thực hiện

Ngay từ năm học 2016–2017, ngành giáo dục đã chủ động ban hành kế hoạch thực hiện đề án, cụ thể hóa bằng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn định kỳ theo từng năm học. Nội dung đề án được tích hợp linh hoạt vào kế hoạch giáo dục nhà trường, với phương châm “mỗi ngày đến trường là một ngày được rèn ngôn ngữ”, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học và đặc thù vùng miền.

Đối với bậc học mầm non, các trường tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, tận dụng tối đa các khoảng thời gian kể chuyện, đọc thơ, chơi trò chơi, hoạt động ngoài trời để lồng ghép rèn kỹ năng nghe – nói tiếng Việt. Với học sinh tiểu học, các nhà trường chủ động điều chỉnh kế hoạch dạy học, tăng thời lượng môn tiếng Việt, tổ chức phụ đạo, hỗ trợ riêng cho nhóm học sinh có năng lực ngôn ngữ yếu, giúp các em từng bước theo kịp chương trình.

Ông Hồ Công Liêm, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo cho biết: “Từ những năm đầu triển khai, ngành đã chỉ đạo thống nhất từ tỉnh đến cơ sở trong xây dựng kế hoạch, lựa chọn nội dung ưu tiên, thiết lập môi trường tiếng Việt phong phú. Bên cạnh hoạt động chuyên môn, việc phối hợp với gia đình và cộng đồng để thiết lập môi trường học tiếng Việt được ngành giáo dục coi là giải pháp then chốt, tạo nền tảng bền vững.”

Một trong những điểm nhấn đáng kể là việc chú trọng đầu tư, phát huy môi trường học tập giàu ngôn ngữ tiếng Việt. Giai đoạn 2016–2025, toàn tỉnh đã thiết lập gần 500 “góc học tập tiếng Việt” tại các lớp học mầm non, tiểu học vùng DTTS. Mỗi góc đều được thiết kế sinh động với tranh ảnh, thẻ chữ, bảng từ, truyện tranh, sách phù hợp với lứa tuổi. Hệ thống thư viện trường học được bổ sung hàng chục nghìn đầu sách mới, nhiều nơi còn tổ chức các hoạt động đọc sách theo nhóm, kể chuyện theo tranh nhằm giúp trẻ hình thành kỹ năng diễn đạt tự nhiên bằng tiếng Việt. Đặc biệt, 95% số trường đã hướng dẫn phụ huynh thiết lập góc học tập tại nhà, tăng cường tính kết nối giữa nhà trường và gia đình trong quá trình hỗ trợ trẻ học ngôn ngữ.

Cùng với đó, công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên được chú trọng. Trong gần 10 năm, tỉnh đã tổ chức hơn 600 lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn cho trên 75.000 lượt cán bộ quản lý, giáo viên mầm non và tiểu học. Nội dung tập huấn đi vào chiều sâu, tập trung vào phương pháp phát triển ngôn ngữ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, kỹ năng xây dựng môi trường học tiếng Việt thân thiện, tích hợp giáo dục song ngữ trong lớp học có học sinh DTTS.

Cô giáo Linh Thu Hương, giáo viên Trường Mầm non xã Bình Phúc, huyện Văn Quan chia sẻ: “Qua các lớp tập huấn chuyên đề, chúng tôi hiểu sâu hơn về đặc điểm tâm lý, ngôn ngữ của trẻ DTTS, từ đó lựa chọn hình thức truyền đạt phù hợp. Trong lớp, tôi thường sử dụng tranh vẽ, mô hình đồ chơi, đọc thơ, kể chuyện kết hợp động tác minh họa để trẻ dễ nhớ và mạnh dạn hơn khi giao tiếp.”

Không dừng lại trong khuôn khổ trường lớp, ngành giáo dục tỉnh còn triển khai đồng bộ giải pháp phối hợp với phụ huynh, cộng đồng. Giai đoạn 2016–2025, toàn tỉnh tổ chức 1.590 lớp bồi dưỡng cho cha mẹ học sinh, thu hút gần 90.000 lượt người tham gia. Các lớp này không chỉ cung cấp kiến thức cơ bản về phương pháp dạy con học tiếng Việt, mà còn hướng dẫn cụ thể cách kể chuyện, đọc sách cùng con, tạo thói quen sử dụng tiếng Việt trong sinh hoạt hằng ngày. Từ đó, phụ huynh người DTTS ngày càng chủ động hơn, góp phần mở rộng môi trường học tiếng Việt tại nhà, tạo sự liên tục trong tiếp nhận và thực hành ngôn ngữ của trẻ.

Những giải pháp đồng bộ, sát thực ấy không chỉ giúp trẻ em vùng DTTS tiếp cận hiệu quả với tiếng Việt, ngôn ngữ chính trong chương trình giáo dục, mà còn góp phần nâng cao chất lượng dạy học toàn diện.

Tạo chuyển biến rõ nét

Sau gần một thập kỷ kiên trì thực hiện đề án, kỹ năng ngôn ngữ và chất lượng học tập của học sinh đã có chuyển biến tích cực. Ở bậc học mầm non, theo thống kê, tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu lĩnh vực phát triển ngôn ngữ hằng năm đạt từ 96,3% trở lên, trong đó, 100% trẻ 5 tuổi đạt chuẩn, bảo đảm điều kiện sẵn sàng vào lớp 1. Đây là nhóm tuổi quan trọng, nếu trẻ được trang bị tốt tiếng Việt sẽ giúp tiếp thu bài học nhanh, không còn cảm giác sợ sệt, lạc lõng khi bước vào môi trường học tập chính quy.

Chuyển biến cũng thể hiện rõ nét ở bậc tiểu học, nơi tiếng Việt không chỉ là một môn học độc lập, mà còn là nền tảng để học sinh tiếp cận toàn bộ chương trình giáo dục. Nhờ được tăng cường thời lượng học, phương pháp giảng dạy phù hợp, cùng môi trường sử dụng tiếng Việt phong phú trong và ngoài lớp học, chất lượng môn Tiếng Việt trong các nhà trường đã có sự chuyển biến tích cực qua từng năm. Nếu như năm học 2021–2022, tỷ lệ học sinh hoàn thành tốt môn tiếng Việt mới đạt 54,8%, thì đến năm học 2024–2025, con số này đã tăng lên 67%; trong khi đó, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành môn học giảm từ 0,6% xuống còn 0,43%.

Cùng với chất lượng học tập, hiệu quả huy động học sinh DTTS đến trường và duy trì sĩ số cũng ngày càng bền vững. Giai đoạn 2016–2025, tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi người DTTS ra lớp đạt 99,9%, duy trì đều qua các năm. Ở bậc tiểu học, số học sinh học 2 buổi/ngày tăng nhanh, đạt 100% từ năm học 2021–2022, tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường hỗ trợ tiếng Việt, tổ chức hoạt động giao tiếp, học tập thực hành bằng tiếng phổ thông. Đây là nền tảng quan trọng để học sinh tiếp cận các môn học, đồng thời rèn luyện khả năng tư duy, trình bày vấn đề bằng tiếng Việt, một yêu cầu then chốt của chương trình giáo dục phổ thông mới.

Tại nhiều xã, hoạt động tăng cường tiếng Việt đã được lồng ghép linh hoạt, hiệu quả vào từng mô hình học tập cụ thể. Ở Trường Mầm non xã Yên Khoái (huyện Lộc Bình), các lớp mẫu giáo đều có góc kể chuyện bằng tranh, trẻ chủ động chọn tranh và kể lại nội dung theo cách hiểu của mình. Trường Tiểu học Mẫu Sơn (huyện Cao Lộc) triển khai mô hình “Góc đọc sáng tạo”, nơi học sinh không chỉ đọc to mà còn chia sẻ với bạn những gì mình hiểu được từ cuốn sách vừa đọc. Trường Tiểu học thị trấn Thất Khê (Tràng Định) tổ chức chuyên đề “Thư viện thân thiện”, duy trì thói quen đọc sách tiếng Việt hằng ngày cho học sinh DTTS. Những mô hình thiết thực ấy đang dần hình thành hệ sinh thái học tiếng Việt gần gũi, hiệu quả trong môi trường học đường vùng cao.

Em Phùng Thị Mỹ Hạnh, học sinh lớp 3A, Trường PTDTBT Tiểu học – THCS xã Liên Hội (huyện Văn Quan) chia sẻ: “Trong lớp, cô giáo thường cho chúng em tham gia kể chuyện, đóng vai nhân vật trong truyện và chơi các trò chơi bằng tiếng Việt. Nhờ vậy mà em nói tiếng Việt trôi chảy hơn, tự tin đứng trước lớp. Ở nhà, em cũng cố gắng nói chuyện với bố mẹ bằng tiếng Việt để quen dần, có từ nào chưa hiểu thì em hỏi lại cô hoặc bạn bè.”

Từ góc độ giáo viên, cô Nguyễn Thị Phượng, Trường Tiểu học thị trấn Đình Lập bày tỏ: “Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi cảm nhận rõ sự thay đổi trong khả năng tiếp nhận kiến thức và kỹ năng ngôn ngữ của học sinh qua từng năm. Trước đây, nhiều em thường e dè, ngại phát biểu vì vốn tiếng Việt hạn chế. Nhưng nhờ được tăng cường rèn luyện từ lớp 1, thông qua các hoạt động như kể chuyện, đóng vai, trò chơi ngôn ngữ và tổ chức góc học tập tiếng Việt, các em mạnh dạn hơn, nói và viết tốt hơn hẳn. Đặc biệt, các em tiếp thu các môn học khác cũng nhanh hơn do hiểu rõ yêu cầu bài học.”

Những chuyển biến tích cực nêu trên không chỉ khẳng định hiệu quả của đề án mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách ngôn ngữ giữa học sinh vùng khó và vùng thuận lợi, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

THẢO NGUYÊN

Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/vung-tieng-viet-sang-tuong-lai-5049819.html