Chậm trễ trong giám định tư pháp sẽ làm cho việc giám định trở nên vô nghĩa
Nhiều ý kiến tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Tư pháp, chiều 5-9, cho rằng cần sửa đổi Luật theo hướng đơn giản thủ tục, rút ngắn thời hạn giám định tư pháp. Bởi lẽ trong một số trường hợp, chẳng hạn như án xâm hại về tình dục, sự chậm trễ trong GĐTP sẽ làm cho việc giám định trở nên vô nghĩa.
Chiều 5-9, Ủy ban Tư pháp đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Giám định tư pháp (GĐTP). Thay mặt Chính phủ trình bày Tờ trình về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long đề nghị bổ sung 3 điều; sửa đổi, bổ sung 5 điều của Luật hiện hành.
Trong đó, đáng lưu ý là để khắc phục tình trạng lạm dụng giám định tư pháp gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử, Khoản 1 Điều 25 Dự thảo Luật đã bổ sung quy định: “Ngoài những trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi cần có đánh giá, kết luận của tổ chức, người giám định tư pháp về chuyên môn đối với những vấn đề có liên quan trong vụ án, vụ việc để chứng minh hành vi phạm tội, thiệt hại, hậu quả của hành vi phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp đã có chứng cứ, tài liệu xác định được nội dung cần chứng minh theo quy định của pháp luật tố tụng thì không tiến hành trưng cầu giám định tư pháp”.
Về vấn đề này, một số ý kiến Nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp cho rằng, việc bổ sung quy định này là không phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật. Mặt khác, BLTTHS chỉ quy định những trường hợp bắt buộc phải giám định (Điều 206 BLTTHS) còn những trường hợp khác thuộc quyền quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền mà không hạn chế vào bất kỳ lĩnh vực nào.
Quy định như dự thảo sẽ làm hạn chế phạm vi được trưng cầu giám định tư pháp của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, như vậy là trái với quy định của BLHS.
Tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đề nghị rà soát lại xem những vướng mắc hiện nay có phải xuất phát từ Luật hay không để có phương án sửa đổi phù hợp. Bà nói: “Qua giám sát, các ý kiến cho rằng những vướng mắc hiện nay chủ yếu là ở khâu thực hiện, triển khai chứ lại không nằm trong Luật”. Trong khi đó, Luật này lại có điểm bó hẹp hơn trước – bà Nga lưu ý. Ngoài 6 trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định, trước đây khi xét thấy cần có ý kiến chuyên môn thì cơ quan chức năng sẽ trưng cầu giám định. Nhưng theo dự thảo thì tới đây sẽ chỉ giám định trong một số trường hợp đã được khoanh định. Tương tự là việc phân tuyến buộc một số trường hợp phải giám định ở địa phương chứ không được lên Trung ương…
Nhóm nghiên cứu nhận thấy, một trong những vướng mắc nhất hiện nay là việc thực hiện GĐTP trong trường hợp giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung quy định này là cần thiết. Tuy nhiên, cách quy định như dự thảo chưa xác định rõ cơ quan, tổ chức giám định, cơ chế trách nhiệm của từng chủ thể tham gia giám định sẽ dẫn đến lúng túng, khó khả thi trong thực tế. “Dự thảo Luật quy định người trưng cầu giám định phải ghi rõ cơ quan, tổ chức chủ trì, cơ quan, tổ chức phối hợp tiếp nhận trưng cầu, thực hiện giám định trong quyết định trưng cầu GĐTP là không phù hợp. Nhóm Nghiên cứu cho rằng, cơ quan soạn thảo cần rà soát, sửa đổi quy định về vấn đề này tại Điều 25, 27, 28 và các điều liên quan khác”, báo cáo nêu rõ.
Về thời hạn giám định, dự thảo bổ sung Điều 26a quy định: thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp khác tối đa là 3 tháng. Căn cứ vào thời hạn giám định tối đa, người trưng cầu giám định xác định cụ thể thời hạn giám định đối với từng vụ việc trong quyết định trưng cầu giám định.
Về vấn đề này, nhiều ý kiến đề nghị có quy định cụ thể cho từng lĩnh vực theo hướng rút ngắn trình tự thủ tục, thời gian giám định. Bởi lẽ, trong một số trường hợp, chẳng hạn như án xâm hại về tình dục, sự chậm trễ trong GĐTP sẽ làm cho việc giám định trở nên vô nghĩa.
Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp tổng kết 5 năm thi hành Luật GĐTP, phân chia theo lĩnh vực giám định thì lĩnh vực kỹ thuật hình sự (dấu vết tài liệu) chiếm 45,2%, hàm lượng ma túy chiếm 12,3%; pháp y tâm thần chiếm 15,3%, pháp y chiếm 6,4%, giám định trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng chiếm 3,6%. Phân chia theo cấp: về giám định kỹ thuật hình sự, Viện KHHS của Bộ Công an đảm nhiệm 14% số việc; Bộ Xây dựng: 350 vụ việc, Bộ Tài chính: tiếp nhận giám định 157 vụ việc; Ngân hàng Nhà nước: 118 vụ việc, từ chối giám định 24 vụ việc; Bộ Thông tin, Truyền thông: 32 vụ.
Sáng 5-9, Ủy ban Tư pháp thực hiện giám sát về công tác giám định tư pháp trong tố tụng hình sự. Theo báo cáo của Đoàn giám sát do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Pha trình bày tại phiên họp, một số vụ việc giám định trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất đai… (để phục vụ giải quyết án tham nhũng, kinh tế) còn bị kéo dài. Ngoài những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được thực hiện theo đúng thời hạn tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, còn lại các trường hợp khác thời gian giám định thường bị kéo dài, không đáp ứng yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, cá biệt có vụ án thời gian giám định kéo dài tới 5 năm.
“Việc cử người giám định ở các bộ ngành thường không kịp thời, làm chậm quá trình giải quyết vụ án. Một số kết luận giám định dùng từ ngữ khó hiểu hoặc chung chung, có dấu hiệu né tránh trách nhiệm, nhất là giám định về tài chính ngân hàng, kinh tế; dẫn đến các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lúng túng, khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án”, Phó Chủ nhiệm Nguyễn Văn Pha nhận định.
Một vướng mắc quan trọng cũng đã được Đoàn giám sát của Ủy ban Tư pháp chỉ rõ. Dẫn báo cáo chuyên đề của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu của Bộ Công an, ông Nguyễn Văn Pha cho biết, đối với các vụ án tham nhũng, kinh tế trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, các cơ quan giám định tài chính kế toán thường yêu cầu phải có giám định chất lượng công trình trước, hoặc công trình phải được quyết toán thì mới có cơ sở kết luận về tài chính kế toán (kể cả công trình đã qua kiểm toán).
Trong khi đó, các công trình xây dựng cơ bản phải thi công trong nhiều năm và không biết khi nào mới quyết toán được. Nếu chưa quyết toán, mặc dù có việc lập chứng từ giả mạo, tiền đã xuất ra khỏi quỹ, bị chiếm đoạt vào túi cá nhân thì giám định tài chính vẫn có thể có quan điểm cho rằng đó là khoản tiền tạm ứng (vì công trình chưa quyết toán), nên chưa cấu thành tội phạm. Đoàn giám sát cho rằng đây là một thực tế diễn ra tương đối phổ biến trong công tác điều tra các vụ án tham nhũng, kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Đoàn giám sát đề nghị các cơ quan tư pháp trung ương phối hợp với các bộ, ngành có liên quan trong công tác giám định theo vụ việc để có giải pháp xử lý cụ thể, nếu không sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng.
Bên cạnh đó, kinh phí phục vụ cho công tác giám định trong lĩnh vực xây dựng chiếm tỷ trọng cao, việc cấp kinh phí chậm trễ trong khi thời hạn điều tra vụ án bị giới hạn, dẫn đến quá trình xử lý vụ án bị kéo dài hoặc không thể xử lý được.
Cũng về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công an, Thượng tướng Lê Quý Vương cũng nói thêm, việc giám định tư pháp các vụ án loại này liên quan đến rất nhiều bộ ngành, từ Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Khoa học Công nghệ, Tài chính… nên đòi hỏi tính phối hợp rất cao; giám định viên phải có trình độ, hiểu biết đa ngành.
“Các bộ ngành cần có kế hoạch xây dựng tổ chức giám định vụ việc của mình để cơ quan tư pháp có thể gửi yêu cầu giám định đúng người, đúng việc”, ông nói.
Thứ trưởng Lê Quý Vương chia sẻ, chi phí giám định cũng là vướng mắc rất lớn, Bộ Công an hiện nay “nợ” các tổ chức giám định không ít. Như giám định vụ vỡ đường ống nước sông Đà, chi phí lên đến khoảng 2 tỷ đồng. Vụ Phan Văn Anh Vũ phải trưng cầu giám định với khối lượng rất lớn, địa phương làm không xuể.