Chỉ khi nào con người Việt Nam được nuôi dưỡng bằng văn hóa số chúng ta mới thực sự làm chủ tương lai

Ngày 6/11, Quốc hội thảo luận ở Tổ về Dự án Luật Chuyển đổi số.

Toàn cảnh phiên họp (Ảnh: Quang Vinh)

Toàn cảnh phiên họp (Ảnh: Quang Vinh)

Đại biểu Bùi Hoài Sơn (Đoàn Hà Nội) cho rằng, việc Chính phủ trình Dự thảo Luật Chuyển đổi số – một đạo luật mới, có tầm chiến lược, nhằm cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là bước đi thể chế hóa quan điểm “lấy con người và doanh nghiệp làm trung tâm của chuyển đổi số”, đồng thời tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho quá trình xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và văn hóa số.

Theo ông Sơn, dự thảo đã gắn kết chuyển đổi số với chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, an ninh mạng, nhân lực số, và hội nhập quốc tế, phản ánh rõ tầm nhìn liên ngành, xuyên lĩnh vực. Luật được trình theo trình tự rút gọn nhưng vẫn bảo đảm chất lượng, tính đồng bộ và có tính khả thi cao trong thực tiễn.

Về phát triển văn hóa số, ông Sơn đánh giá đây là điều khoản đặc biệt có ý nghĩa. Lần đầu tiên, văn hóa số được quy định trong một đạo luật về công nghệ, thể hiện sự nhận thức đầy đủ về vai trò của văn hóa trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Song cần bổ sung rõ nội hàm của “văn hóa số” không chỉ bao gồm việc số hóa di sản, nghệ thuật, dữ liệu văn hóa, mà còn bao gồm xây dựng hệ sinh thái sáng tạo, không gian văn hóa trên môi trường số, nơi công dân được sáng tạo, chia sẻ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa an toàn, có định hướng.

“Cần nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong dẫn dắt, chuẩn mực hóa và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong môi trường số. Bổ sung cơ chế hợp tác công tư (PPP) trong xây dựng nền tảng, hạ tầng văn hóa số. Nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ và sáng tạo đầu tư vào kho dữ liệu văn hóa, nền tảng số dùng chung, các ứng dụng tương tác di sản, nhằm biến di sản thành nguồn lực phát triển chứ không chỉ là đối tượng bảo tồn. Đưa “giáo dục văn hóa số” vào nội dung đào tạo nhân lực số, hướng tới hình thành công dân số có văn hóa, có trách nhiệm, có năng lực thẩm mỹ và đạo đức trong không gian mạng”, ông Sơn nhấn mạnh và cho hay cần làm rõ trách nhiệm giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Khoa học và Công nghệ trong triển khai văn hóa số. Bộ Khoa học và Công nghệ giữ vai trò kiến tạo thể chế và hạ tầng; Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch phải là đầu mối nội dung, quản lý giá trị và định hướng sáng tạo văn hóa số quốc gia.

Về cơ chế đầu tư và tài chính cho chuyển đổi số, ông Sơn cho rằng, nếu áp dụng cứng nhắc quy định về đầu tư công, đấu thầu, ngân sách thì sẽ không kịp nhịp đổi mới công nghệ. Do đó, cần mở cơ chế đặc thù về đầu tư linh hoạt, mua sắm công nghệ, thuê dịch vụ số, tương tự như cơ chế đang thí điểm tại Nghị quyết 193/2025/QH15 về đột phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Về tính thống nhất với pháp luật và tính khả thi Dự thảo đã bám sát các điều ước quốc tế, song cần rà soát thêm tính tương thích với các công ước sắp tham gia như Hiệp định ITA2, Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng, Công ước UNCITRAL về giao dịch điện tử để chủ động trong hội nhập và bảo đảm chủ quyền số.

Ông Sơn đồng tình với việc Quốc hội xem xét, thông qua Luật này theo trình tự rút gọn, coi đây là bước đột phá thể chế quan trọng sau các đạo luật về dữ liệu và công nghệ số. Tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo tiếp thu, làm sâu sắc hơn Điều 33 về văn hóa số, coi đó là linh hồn của chuyển đổi số Việt Nam vì chỉ khi nào con người Việt Nam được nuôi dưỡng bằng văn hóa số, chúng ta mới thực sự làm chủ công nghệ, làm chủ tương lai.

Việt Thắng - Trung Hiếu

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/chi-khi-nao-con-nguoi-viet-nam-duoc-nuoi-duong-bang-van-hoa-so-chung-ta-moi-thuc-su-lam-chu-tuong-lai.html