Chiến dịch Huế - Đà Nẵng:Nghệ thuật vận dụng cách đánh sáng tạo
Trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 5 - 29/3/1975), trên cơ sở đánh giá đúng tình hình so sánh lực lượng địch, ta trên chiến trường; chọn hướng, đối tượng, mục tiêu tiến công trên hướng chủ yếu và các hướng quan trọng, cách đánh của hai quân khu và Quân đoàn 2 được hình thành 2 giai đoạn theo kế hoạch cơ bản ban đầu và kế hoạch thời cơ sau đó.
Trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 5 - 29/3/1975), trên cơ sở đánh giá đúng tình hình so sánh lực lượng địch, ta trên chiến trường; chọn hướng, đối tượng, mục tiêu tiến công trên hướng chủ yếu và các hướng quan trọng, cách đánh của hai quân khu và Quân đoàn 2 được hình thành 2 giai đoạn theo kế hoạch cơ bản ban đầu và kế hoạch thời cơ sau đó.
Chiến sĩ Quân đoàn 2 tiến công địch ở thành phố Huế.Ảnh: tư liệu.
Từ ngày 5 - 20/3/1975, thực hành tác chiến tạo thế, phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên và đồng loạt tiến công vào các khu vực phòng ngự của địch. Khi thời cơ xuất hiện đã nhanh chóng cắt Đường số 1, chia cắt Huế - Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng; tiến công giải phóng thị xã Tam Kỳ, Quảng Ngãi, thành phố Huế, Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà.
Cách đánh của các đơn vị chủ yếu là đánh nhỏ trên các trục đường giao thông, bao vây, uy hiếp địch trên tuyến giáp ranh, phản kích các căn cứ, nghi binh thu hút địch ở Quảng Trị, đưa các đội vũ trang công tác xuống đồng bằng, phá lỏng thế kìm kẹp của địch.
Trong đợt tác chiến lớn hơn, cách đánh của các đơn vị phổ biến là tiến công bằng hiệp đồng binh chủng quy mô trung đoàn, sư đoàn, nổ súng đồng loạt trên nhiều hướng, tập trung đột phá hướng tiến công chủ yếu, đánh quân địch phản kích liên tục, kết hợp chốt với vận động tiến công.
Khi thời cơ lớn xuất hiện, các đơn vị chuyển từ tiến công đột phá sang tiến công trong hành tiến. Quân đoàn 2 cơ động Sư đoàn 325 đánh chiếm Đường số 1, cắt hoàn toàn con đường huyết mạch Huế - Đà Nẵng. Sư đoàn 324 bỏ qua Núi Bông, Núi Nghệ, Cao điểm 303 Mỏ Tàu, nhanh chóng thọc ra Đường số 1, phối hợp với Sư đoàn 325 chia cắt địch. Các trung đoàn trong sư đoàn chiếm và làm chủ các điểm cao sát Đường số 1, chiếm núi Kim Sắc, cắt Đường số 1 từ Bái Sơn đến Bạch Thạch, áp sát Lương Điền, buộc hàng ngàn xe di tản vào Đà Nẵng phải quay lại, tạo tình thế cực kỳ hoảng loạn trong hàng ngũ địch. Trước thế tiến công áp đảo của ta, địch chủ trương rút khỏi Huế, Quảng Ngãi, Tam Kỳ về co cụm ở Đà Nẵng.
Cách đánh Huế của ta là chia cắt, bao vây, vu hồi, tiêu diệt địch ở ngoại vi thành phố, đi đôi với khống chế bịt chặt các đường rút lui của địch bằng đường biển ra cửa Thuận An, cửa Tư Hiền, cảng Tân Mỹ, kết hợp với bộ phận thọc sâu, giải phóng thành phố. Cách đánh của ta vào thị xã Tam Kỳ và thị xã Quảng Ngãi có khác. Ta kéo chủ lực địch ra vòng ngoài để tiêu diệt, kết hợp với thọc sâu táo bạo, đánh chiếm các mục tiêu then chốt, làm chủ thị xã. Với lối đánh nhanh, mạnh, thọc sâu, chia cắt trong thế suy sụp của địch, ta đã nhanh chóng chiếm thành phố, thị xã nhanh gọn, địch không kịp và không thể co cụm về Đà Nẵng.
Tiến công thành phố Đà Nẵng, cách đánh của ta có bước phát triển hơn nữa. Mặc dù địch ở Đà Nẵng còn khá đông, nhưng tinh thần đã suy sụp, tổ chức chỉ huy đã rối loạn…, cách đánh của ta là nhanh chóng, đồng loạt tiến công từ 4 hướng. Ngày 28/3, pháo 130 mm bắn phá sân bay Đà Nẵng, Hòn Bằng, Trà Kiệu, Vĩnh Điện. Các cánh bộ binh có xe tăng đi cùng tiến công nhanh trong hành tiến, đập tan sự chống cự của địch trên đường hoặc bỏ qua để nhanh chóng phát triển tiến công. Do đó ngày hôm sau, 29/3, lúc 13h, Trung đoàn 18 đã chiếm quân cảng, bán đảo Sơn Trà; Trung đoàn 19, lúc 13h30p đã chiếm tòa thị chính Đà Nẵng; Sư đoàn 304, lúc 12h30p đến Hòa Cầm tiến vào sân bay Đà Nẵng; Sư đoàn 2 và các lực lượng Khu 5, lúc 12h chiếm Sở chỉ huy Quân khu 1, Quân đoàn 1 địch, sở chỉ huy không quân và sân bay Nước Mặn.
Thực tiễn chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng cho thấy, cách đánh chiến dịch diễn ra hai cách khác nhau. Đợt đầu, tiến công, đánh theo kế hoạch đã chuẩn bị từ trước, trong hình thái địch bố trí phòng thủ ổn định, chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công của ta. Đợt sau, cả mặt trận do Bộ trực tiếp chỉ huy, tiến công địch theo kế hoạch thời cơ xuất hiện, địch sa sút, rối loạn, rút chạy, co cụm, ta tiến công mãnh liệt trong hành tiến.
Đợt đầu, ta mở màn chiến dịch bằng đơn vị tại chỗ, đánh nhỏ, tác chiến tạo thế rồi đồng loạt tiến công vào các mục tiêu vững chắc của chủ lực địch bằng tác chiến hiệp đồng binh chủng, kết hợp đột phá, vu hồi, thọc sâu, đánh địch phản kích. Đợt sau, khi thời cơ xuất hiện, ta vận dụng cách đánh rất linh hoạt, táo bạo, nhanh chóng tung lực lượng lớn, đánh chiếm Đường số 1, chia cắt chiến dịch, chiến lược Huế - Đà Nẵng; hình thành thế bao vây chia cắt tiêu diệt quân địch ở ngoại vi các thị xã, thành phố, đồng thời sử dụng bộ phận chủ lực có xe tăng, pháo binh đi cùng thọc sâu đánh chiếm thị xã, thành phố.
Như vậy, cách đánh của chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng một mặt dựa vào dự kiến tình huống cơ bản, mặt khác đã dựa vào tình huống cụ thể, nhất là khi xuất hiện thời cơ, để vận dụng thật chủ động, sáng tạo, linh hoạt. Khi địch phòng ngự có tổ chức, ta đánh địch theo kế hoạch đã dự kiến, đánh nhỏ, tạo thế hoặc đánh có tổ chức chuẩn bị chu đáo bằng tác chiến hiệp đồng binh chủng với các biện pháp tác chiến thích hợp. Song khi địch bắt đầu tan rã, rút chạy, ta phải nhạy bén thay đổi ngay cách đánh, không đột phá lần lượt mà tiến công nhanh, mạnh trong hành tiến, liên tục bao vây chia cắt, vu hồi, thọc sâu, đập tan sự kháng cự còn lại của địch với tinh thần kiên quyết, thần tốc, táo bạo và chắc thắng.