'Chiến trường và quê hương' của lão tướng U100
95 tuổi đời, 75 tuổi Đảng, Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai vẫn khỏe mạnh. Giọng nói sang sảng, tinh thần mẫn tiệp, chân bước chậm nhưng vững chãi, ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tham gia nhiều sự kiện, hội thảo do Bộ Công an tổ chức.
Mới đầu tháng 4/2025, thấy ông phát biểu tại buổi gặp mặt của Tổng Bí thư Tô Lâm với các cán bộ Công an chi viện chiến trường miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước; giữa tháng 7, tại buổi lễ trao trả hồ sơ chứng tích chiến tranh từ phía Mỹ cho Việt Nam, ông cũng có mặt từ rất sớm và chăm chú theo dõi chương trình. Rồi những ngày đầu tháng 9 này, cuốn hồi ký "Chiến trường và quê hương" của Thiếu tướng Phan Văn Lai trình làng. Đọc những trang hồi ký, người đọc cảm nhận được ở vị tướng già nỗi niềm đau đáu với quê hương, đồng đội và tâm đức với cuộc đời.
Một chốn bốn quê
Anh hùng Phan Văn Lai sinh ngày 25/10/1930 trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Quê ông ở xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định (cũ), nhưng trong hồi ký, ông tự hào “khoe” rằng mình có tận… bốn quê. Đó không chỉ là mảnh đất Nam Định, mà còn là Hải Phòng, Hà Nam và Thừa Thiên Huế, những vùng đất gắn bó với nhiều giai đoạn của cuộc đời ông.

Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai tặng sách cho các đại biểu.
Bố mẹ ông đều cùng quê Nam Định, sau khi nên duyên vợ chồng thì ra thành phố Hải Phòng kiếm sống. Bởi thế, cả bốn người con trai trong đó có Phan Văn Lai đều sinh ra ở Hải Phòng. Tuổi thơ của ông gắn với những gánh phở rong, xe kem dạo của mẹ cùng tiếng chuông leng keng trên phố. Dần dần cuộc sống khấm khá hơn thì bố mẹ ông mở cửa hiệu kinh doanh và nuôi các con ăn học tử tế. Phan Văn Lai được học hết lớp Đệ nhị ở Trường Bonnald.
Biến cố lớn xảy đến khiến gia đình ông phải rời Hải Phòng về quê Trực Ninh khi ông 16 tuổi. Đó là thời điểm năm 1946, Pháp gây hấn và chiếm lại toàn bộ thành phố Hải Phòng. Thời điểm đó, gia đình ông đã bị lộ là cơ sở cách mạng có con trai lớn theo Vệ quốc quân kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Trong tình thế đó, bố mẹ ông quyết định bỏ lại toàn bộ cơ ngơi, tài sản ở Hải Phòng để đưa các con về Nam Định với hai bàn tay trắng.
Trở về quê hương, Phan Văn Lai vừa tham gia dạy bình dân học vụ cho bà con trong xã vừa lãnh đạo Đội Thiếu nhi tổ chức các buổi cổ động phong trào diệt giặc đói, diệt giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chỉ sau một thời gian ngắn, năm năm 1948 khi 18 tuổi, Phan Văn Lai là cán bộ huyện đoàn thanh niên cứu quốc.
Đầu năm 1949, khi 19 tuổi, Phan Văn Lai được triệu tập lên Ty Công an Hà Nam nhận công tác. Trong hồi ký, ông kể: “Người gặp đầu tiên và trực tiếp phỏng vấn tôi là Trưởng ty Trần Lung… Điều làm tôi bất ngờ là lần đầu tiên tiếp xúc, ông Trần Lung đã hỏi tôi bằng tiếng Pháp. Thấy tôi đáp lại trôi chảy cũng bằng thứ tiếng Pháp, ông Trần Lung nhận ngay tôi làm thư ký cho ông. Từ đó tôi gắn bó với ngành Công an cho đến tận bây giờ”. Chính vì vậy, ông coi mảnh đất Hà Nam là quê hương thứ 3 - nơi ông vào ngành Công an và tham gia chiến đấu cùng lực lượng Công an Hà Nam trong vùng địch hậu của thực dân Pháp.
Mảnh đất Hà Nam cũng là nơi ông bén duyên với cô du kích Nguyễn Thị Y. Đó là cuối năm 1951, Phan Văn Lai theo ông Trần Lung đi công tác ở vùng địch tạm chiếm là xã Trác Văn, huyện Duy Tiên. Ông kể: “Cô Nguyễn Thị Y là du kích xã (sau này Y lấy bí danh là Nguyễn Thị Kim Thanh). Kim Thanh ngày ấy xinh đẹp, thuộc Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ. Đặc biệt, Kim Thanh có năng khiếu làm thơ. Ngày ấy, Kim Thanh được nhiều anh cán bộ và bộ đội đeo đuổi nhưng em đã chọn tôi”.
Mối tình giữa chiến sĩ công an với nữ du kích xã Trác Văn trong vùng địch hậu hiểm nguy và lãng mạn. Đầu năm 1954, lễ cưới giản dị diễn ra. Năm 1962, Bộ Công an phát động phong trào viết đơn tình nguyện đi chiến trường, Phan Văn Lai viết đơn xin vào Nam chiến đấu. Đầu năm 1964, ông được Bộ Công an chi viện vào Ban An ninh tỉnh Thừa Thiên. Lúc này, ông đã có ba cậu con trai: Phan Quốc Thái 5 tuổi, Phan Quốc Thịnh 3 tuổi và Phan Quốc Thắng mới sinh còn chưa cai sữa.
Trải qua 12 năm chiến đấu gian khổ, ác liệt và được đồng đội, đồng bào yêu thương, đùm bọc, chở che, ông coi mảnh đất Trị Thiên Huế là quê hương thứ tư của mình. Năm 1965, Phan Văn Lai làm Chánh văn phòng, Bí thư Đảng ủy Ban An ninh tỉnh Thừa Thiên. Năm 1967, thành lập Ban An ninh khu Trị Thiên Huế, ông được điều động làm Chánh văn phòng và Phó bí thư đảng ủy Ban An ninh khu.
Các cán bộ Ban An ninh khu Trị Thiên Huế trong đó có Phan Văn Lai đã đóng góp xuất sắc trong Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân - 1968, giải phóng nhà lao Thừa Phủ… Những trận đánh, chiến công của lực lượng an ninh, những trận càn của địch, ngày tháng ông và đồng đội được người dân nuôi giấu trong hầm bí mật, thoát khỏi vòng tìm diệt của kẻ thù được tái hiện một cách sinh động và chân thực trong hồi ký.
Ở quê nhà, 12 năm đằng đẵng ấy, người vợ Kim Thanh luôn chung thủy, đảm đang chăm sóc mẹ chồng, nuôi dạy các con ăn học để chồng yên tâm chiến đấu nơi chiến trường ác liệt. Bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ họ dồn cả vào những cánh thư.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, ông tiếp tục làm Chánh Văn phòng Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, làm nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng. Tháng 5/1976, ông được Bộ Công an điều động về Vụ Nghiên cứu tổng hợp nay là Văn phòng Bộ Công an. Tháng 8/1988, ông được bổ nhiệm làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng, Bộ Công an. Từ năm 1990 ông làm Chánh thanh tra Bộ Công an cho đến khi nghỉ hưu năm 1996.
Với bản tính khiêm nhường, tướng Phan Văn Lai viết rất ít về mình. Nổi bật trong cuốn hồi ký là chiến công của những đồng đội và người dân huyện Phú Vang (Trị Thiên Huế). Cũng chính tại chiến trường này, trải qua 12 năm “nếm mật nằm gai”, cùng đồng đội lập nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc, ông đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện Thiếu tướng Phan Văn Lai đã có 18 năm đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Liên lạc Công an chi viện chiến trường miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (từ năm 2007 đến nay) và là chủ tịch, chủ tịch danh dự của nhiều tổ chức xã hội của quê hương.
Một gia đình đặc biệt
Trong cuốn sách của Thiếu tướng Phan Văn Lai, mạch chuyện về gia đình, quê hương nối tiếp, đan xen với bao sự kiện trải dài theo không gian và thời gian. Ông có tới 4 quê hương nhưng trong suốt 2 cuộc kháng chiến, gia đình ông không có một ngôi nhà cố định. Sau khi bỏ lại nhà cửa, tài sản ở thành phố Hải Phòng, gia đình trở về quê thì ngôi nhà ở quê đã bị giặc Pháp đốt cháy. Năm 1948, do cuộc sống bươn chải, gian khổ nên bố ông lâm bệnh rồi qua đời. Những năm tháng sau đó, mẹ ông và vợ ông phải sống tạm bợ nhiều nơi, tần tảo nuôi các con, các cháu.

Bìa cuốn hồi ký “Chiến trường và quê hương”.
Mẹ Lê Thị Mỵ - thân mẫu của Thiếu tướng Phan Văn Lai sinh được 4 người con trai thì cả 4 người đều tham gia lực lượng vũ trang. Trong đó người con cả là Phan Văn Tòng tham gia Vệ quốc quân năm 1944. Ba người con còn lại là Phan Văn Lai, Phan Văn Cầu và Phan Ngọc Sơn đến những năm 1964 -1965 đều cùng vào chiến trường miền Nam chống Mỹ cứu nước.
Bốn con lên đường, nhưng chỉ có 2 người con trở về với mẹ Mỵ. Con cả Phan Văn Tòng hy sinh năm 1948 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, con út Phan Ngọc Sơn hy sinh năm 1970 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mẹ Mỵ mất năm 1989 ở tuổi 88, khi chưa được chứng kiến niềm vinh quang của mẹ và của gia đình. Mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2016.
Đặc biệt, vào năm 2016, Đảng bộ và chính quyền xã Phương Định đã trang trọng tổ chức Lễ đón nhận cùng lúc danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho mẹ Mỵ (1901– 1989) và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Thiếu tướng Phan Văn Lai. Gia đình lão tướng có hai cha con được phong hàm Thiếu tướng trong lực lượng CAND. Thiếu tướng Phan Văn Lai có người con trai cả là Thiếu tướng Phan Quốc Thái, sinh 1957, nguyên Cục trưởng Cục Hậu cần, Tổng cục An ninh 1, Bộ Công an.
Có lẽ Thiếu tướng Phan Văn Lai là một trong những tác giả cao tuổi nhất Việt Nam ra mắt sách đúng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, tròn 80 năm ngày truyền thống của lực lượng CAND. Cuốn hồi ký là sự tri ân những vùng quê ông gắn bó yêu thương, là sự tưởng nhớ và biết ơn đồng đội, những người mẹ nơi chiến trường Trị Thiên Huế trung kiên đã thương yêu, che chở, bảo vệ để ông chiến đấu đến ngày đất nước thắng lợi.