Chỗ dựa cho lao động tự do thất nghiệp

Đã đến lúc cần thiết chế hóa quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức, đặc biệt là nền tảng công nghệ ký hợp đồng lao động (dù ở hình thức linh hoạt) với người lao động thường xuyên, lâu dài.

Tôi gặp lại Nam, một cựu sinh viên tốt nghiệp cao Đẳng ngành kế toán. Sau 4 năm ra trường, nhìn Nam gầy đi, da sạm đen lại không còn là cậu sinh viên thư sinh ngày trước.

Nam kể, suốt mấy năm qua cậu lặn lội làm đủ nghề ở Hà Nội để mưu sinh, từ phục vụ quán cà phê, quán nhậu, đến chạy bàn ở quán bia. Công việc duy nhất gắn bó lâu nhất với Nam là chạy xe ôm công nghệ.

Thu nhập từ chạy Grab đủ để Nam chi trả tiền thuê trọ, ăn uống, và gửi chút ít về quê. Thế nhưng, sau một trận ốm kéo dài, sức khỏe giảm sút khiến Nam không thể chạy xe đều đặn mỗi ngày. Những ngày nắng nóng, Nam nằm nhà nghỉ ngơi cũng đồng nghĩa không có thu nhập. Tiền thuê nhà, thuốc men, sinh hoạt phí đều phải chạy vạy mượn bạn bè, người quen.

Vì làm lao động tự do nên khi ốm đau Nam không có bảo hiểm y tế (BHYT), khi thất nghiệp cũng không có điểm tựa bảo hiểm thất nghiệp như những người làm việc có ký hợp đồng lao động và tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH).

Nam chia sẻ, thực tế em từng được một công ty gọi ký hợp đồng lao động với mức lương thử việc 6 triệu đồng, thế nhưng so với chạy Grab thu nhập thấp hơn nên Nam lựa chọn công việc vất vả để có thu nhập cao hơn.

Nhưng rồi khi ốm đau, rơi vào cảnh thất nghiệp, Nam mới thấm thía làm lao động tự do cuộc sống vô cùng bấp bênh.

“Lao động tự do không tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp nên khi ốm đau nghỉ việc là lâm vào cảnh khốn khó không có chỗ dựa”, Nam chia sẻ.

Câu chuyện của Nam không hiếm giữa thành phố đông đúc này. Hà Nội, TP.HCM hay nhiều đô thị lớn đang là nơi tập trung đông đảo lao động tự do, những người làm việc không hợp đồng, không chế độ, không điểm tựa khi mất việc hay đau ốm.

Lao động tự do dễ bị tổn thương khi không tham gia BHXH, không có bảo hiểm y tế. Ảnh minh họa: K.Trung.

Lao động tự do dễ bị tổn thương khi không tham gia BHXH, không có bảo hiểm y tế. Ảnh minh họa: K.Trung.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024 Việt Nam hiện có khoảng 33 triệu lao động tự do (trên tổng số 52 triệu lao động), chiếm hơn 65% tổng số lao động trong cả nước. Tuy nhiên có đến 43,9% lao động phi chính thức được xếp vào nhóm lao động có việc làm dễ bị tổn thương. Ðiều đáng nói, hầu hết lao động phi chính thức không có BHXH (chiếm tới 97,9%). Điều này đồng nghĩa không có BHYT, bảo hiểm thất nghiệp.

Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp thiết về một hệ thống an sinh linh hoạt và bao trùm hơn cho lực lượng lao động chiếm đa số này.

Cần quy định để lao động tự do đảm bảo an sinh

Thị trường lao động Việt Nam đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng linh hoạt và số hóa, một lực lượng lao động ngày càng lớn đang làm việc tự do trên các nền tảng công nghệ, thời vụ, bán thời gian mà không có bất kỳ ràng buộc pháp lý nào với bên sử dụng lao động.

Đa số những người lao động này không có hợp đồng lao động, đồng nghĩa với việc không được tiếp cận các chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp vốn là những trụ cột quan trọng của hệ thống an sinh xã hội.

Vì vậy, đã đến lúc cần thiết chế hóa quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức, đặc biệt là nền tảng công nghệ ký hợp đồng lao động (dù ở hình thức linh hoạt) với người lao động thường xuyên, lâu dài. Có hợp đồng mới có căn cứ để tham gia BHXH, có quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi người lao động trong thị trường việc làm mới.

Bản thân Luật Lao động không cấm việc ký hợp đồng với người lao động linh hoạt. Vấn đề là cần một khung pháp lý rõ ràng, đủ mạnh để đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi số và mở rộng kinh tế nền tảng, nơi người lao động ngày càng là trung tâm của sự phát triển.

Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm từ cá nước phát triển trong thực hiện chính sách an sinh với lao động tự do như: Pháp, Đức, Thụy Điển… khi đang áp dụng mô hình bảo hiểm thất nghiệp tự nguyện hoặc hỗ trợ một phần mức đóng để mở rộng lưới an sinh cho người lao động tự do.

Đơn cử như hệ thống bảo hiểm thất nghiệp của Đức vận hành theo hai tầng rõ rệt, vừa bao phủ nhóm lao động chính thức, vừa hỗ trợ nhóm yếu thế như lao động tự do, hợp đồng ngắn hạn.

Tầng thứ nhất (ALG I): Là khoản trợ cấp dành cho người lao động có thời gian đóng bảo hiểm từ 12 tháng trở lên trong vòng 30 tháng trước khi thất nghiệp. Trợ cấp dao động từ 60–67% thu nhập ròng, được hưởng từ 6 đến 24 tháng tùy độ tuổi và thời gian làm việc.

Tầng thứ hai (Bürgergeld, trước đây là ALG II), hỗ trợ cơ bản dành cho người thất nghiệp dài hạn hoặc không đủ điều kiện hưởng ALG I, trong đó có cả lao động tự do. Mức trợ cấp Bürgergeld đi kèm các chính sách đảm bảo mức sống tối thiểu và tạo điều kiện quay lại thị trường lao động.

Tại Việt Nam, Luật Việc làm (sửa đổi) mới được thông qua đã mở rộng đáng kể phạm vi điều chỉnh của chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hướng tới bao phủ cả nhóm lao động làm việc linh hoạt và tự do (lực lượng đang ngày càng gia tăng trong nền kinh tế số).

Theo đó, người lao động có giao kết hợp đồng xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên (thay vì từ 3 tháng như trước đây), cũng như người làm việc không trọn thời gian, nếu có mức thu nhập bằng hoặc cao hơn mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất, đều thuộc diện tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Quy định này giúp thống nhất với Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và từng bước mở rộng mạng lưới an sinh cho những người làm việc ngoài khu vực chính thức.

Để luật đi vào cuộc sống các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp khi sử dụng thường xuyên lao động tự do phải có nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động (dù là linh hoạt) và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, tương tự như với lao động chính thức. Đây là bước tiến quan trọng nhằm tránh tình trạng “lách luật” để né tránh đóng bảo hiểm, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong bối cảnh thị trường việc làm ngày càng phi truyền thống.

Vũ Điệp

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/cho-dua-cho-lao-dong-tu-do-that-nghiep-2413873.html