Chọn ngày giờ sinh: Niềm tin đẹp, hệ lụy khó lường
Ngày càng nhiều gia đình mong muốn con chào đời vào 'giờ đẹp, ngày lành' bằng phương pháp sinh mổ chủ động. Thế nhưng, các chuyên gia cảnh báo, việc can thiệp không theo chỉ định y khoa có thể làm gia tăng tỷ lệ mổ lấy thai vốn đã ở mức cao, đồng thời để lại những rủi ro khôn lường cho cả mẹ và bé.

Chăm sóc trẻ sơ sinh tại BV Phụ sản Hải Phòng. Ảnh: BVCC.
Từ niềm tin tới thực tế y khoa
Những năm gần đây, tại nhiều đô thị lớn, không khó để bắt gặp câu chuyện các gia đình bàn bạc, thậm chí chuẩn bị từ nhiều tháng trước để chọn ngày, giờ sinh con. Với mong muốn em bé chào đời vào “ngày lành, giờ tốt”, nhiều sản phụ đã xin bác sĩ mổ lấy thai theo lịch định sẵn, bất kể thai kỳ có chỉ định y khoa hay không. Xu hướng này xuất phát từ niềm tin rằng thời khắc ra đời có thể định đoạt vận mệnh của con, đồng thời giúp gia đình chủ động sắp xếp công việc, lo chu toàn hậu sản.
Tuy nhiên, ẩn sau những mong muốn tưởng như chính đáng ấy lại là bức tranh y khoa không mấy sáng sủa. Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có tỉ lệ sinh mổ cao hàng đầu khu vực. Theo thống kê, nếu năm 2005 tỷ lệ mổ lấy thai mới chỉ dừng ở mức 12%, thì đến năm 2022 đã tăng vọt lên 37% – tức gấp 3 lần trong chưa đầy hai thập kỷ. Con số này cao gấp nhiều lần so với khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vốn cho rằng tỷ lệ sinh mổ hợp lý chỉ nên dao động từ 10 - 15% tổng số ca sinh.
PGS.TS Vũ Văn Du - Phó Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết: “Tỷ lệ sinh mổ cao đã trở thành một vấn đề cấp bách, làm dấy lên mối lo ngại về tác động đối với sức khỏe của bà mẹ cũng như hậu quả lâu dài. Nguyên nhân của thực trạng này là do nhiều thai phụ sợ sinh con. Họ sợ đau khi chuyển dạ, sợ tổn thương sàn chậu dẫn đến tiểu không tự chủ, sợ phải phẫu thuật khẩn cấp, sợ mất con. Ngoài ra, nhiều thai phụ còn mong muốn lựa chọn thời điểm sinh, ngày sinh, giờ sinh”.
PGS.TS Trần Danh Cường - nguyên Giám đốc Bệnh viện Phụ Sản Trung ương đánh giá, tỷ lệ mổ đẻ theo yêu cầu từ sản phụ ngày càng tăng cao, không phải từ chỉ định của bác sĩ. Thậm chí, chuyên gia này còn đưa thực trạng, có những đơn vị, tỷ lệ mổ đẻ con đầu có thể lên đến 50%, do yêu cầu của người bệnh vì tâm lý sợ đau, chọn giờ đẹp sinh con.
Thực tế, theo một số nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, do nhóm các bác sĩ tại cơ sở y tế này thực hiện cho thấy, trong các năm 2017 và 2021, tỉ lệ sinh mổ tại đây đều vượt ngưỡng 54%, trong đó một phần không nhỏ là những ca mổ chủ động, không vì lý do y khoa.
Các chuyên gia đều bày tỏ lo ngại trước thực trạng gia tăng sinh mổ chọn ngày giờ. Bởi lẽ, sinh mổ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với sinh thường, gây lo ngại về sức khỏe lâu dài cho cả mẹ và bé.
Ở góc độ xã hội, việc chọn ngày giờ sinh con phản ánh niềm tin truyền thống về “đầu xuôi đuôi lọt”, mong con có cuộc đời suôn sẻ. Song khi niềm tin này được “dịch chuyển” thành yêu cầu y khoa, nó đã góp phần làm gia tăng tình trạng lạm dụng sinh mổ. Các chuyên gia cảnh báo, nếu xu hướng ấy tiếp tục lan rộng, tỷ lệ sinh mổ ở Việt Nam sẽ không chỉ tiếp tục vượt xa ngưỡng an toàn mà còn biến một phương pháp can thiệp cứu nguy trở thành thói quen xã hội, để lại hệ lụy lâu dài.
Hiểm nguy từ những ca mổ không đúng chỉ định
Trong y học, mổ lấy thai vốn được xem là một trong những tiến bộ quan trọng của sản khoa hiện đại, góp phần cứu sống hàng triệu bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, khi việc phẫu thuật này được thực hiện không dựa trên chỉ định y khoa mà chỉ để đáp ứng mong muốn về ngày giờ, nguy cơ đối với sức khỏe cả mẹ và con lại trở nên khó lường.
Với sản phụ, mổ lấy thai đồng nghĩa phải trải qua một cuộc đại phẫu. Trong khi đó, trẻ sơ sinh cũng không nằm ngoài vòng rủi ro. Ca bệnh mới đây ghi nhận tại Trung tâm Sơ sinh (Bệnh viện Nhi Trung ương) là một trường hợp điển hình.
Một trẻ sơ sinh hai ngày tuổi, được mổ lấy thai ở tuần 37 theo yêu cầu của gia đình để “chọn ngày giờ đẹp”. Ngay sau sinh, trẻ có biểu hiện suy hô hấp, phải thở oxy và chuyển viện khẩn cấp. Khi đến Trung tâm Sơ sinh, trẻ đã trong tình trạng tím tái, suy tuần hoàn nghiêm trọng và được chẩn đoán tăng áp lực động mạch phổi nặng. Mặc dù được hồi sức tích cực, sử dụng các kỹ thuật cao như thở máy, dùng surfactant, thở iNO, trẻ vẫn không đáp ứng với các biện pháp điều trị và không qua khỏi.
Đáng cảnh báo hơn khi theo các bác sĩ tại Bệnh viện Nhi Trung ương, trường hợp nói trên điển hình nhưng không hãn hữu. Trên thực tế, thời gian qua cơ sở y tế này đã ghi nhận không ít trường hợp tương tự, trẻ sơ sinh rơi vào tình trạng nguy kịch sau khi được sinh mổ chưa có chuyển dạ, vì gia đình mong muốn “ngày giờ đẹp”.
Các chuyên gia khẳng định, sinh thường vẫn là phương pháp tự nhiên và an toàn nhất cho cả mẹ lẫn bé. Với người mẹ, sinh qua đường âm đạo giúp phục hồi nhanh hơn, giảm nguy cơ mất máu, viêm nhiễm, tiết sữa sớm và ít tốn kém. Đặc biệt, đây còn là hành trình thiêng liêng để mẹ cảm nhận trọn vẹn khoảnh khắc “vượt cạn”.
Đối với em bé, sinh thường tạo điều kiện thích nghi tốt hơn với môi trường bên ngoài. Áp lực co bóp trong chuyển dạ giúp đẩy dịch nhầy khỏi phổi, giảm nguy cơ suy hô hấp; trẻ đồng thời được tiếp xúc với hệ vi sinh có lợi từ mẹ, góp phần phát triển hệ miễn dịch và tiêu hóa. Sinh thường cũng thuận lợi để bé được da kề da, bú mẹ sớm, từ đó tăng gắn kết tình cảm và hỗ trợ phát triển thể chất, tinh thần ngay từ những giờ đầu đời.
Các chuyên gia nhấn mạnh, sinh con là sự kiện trọng đại trong đời mỗi gia đình, nhưng an toàn của mẹ và bé luôn phải được đặt lên hàng đầu. Niềm tin vào “giờ đẹp, ngày lành” có thể mang ý nghĩa tinh thần, song y học không cho phép sự đánh đổi. Một khởi đầu bình an cho con phải được xây dựng từ sự an toàn và khoa học, chứ không phải từ những tính toán phong thủy.
Theo ThS.BS. Nguyễn Thị Hồng Loan - Khoa Điều trị tích cực sơ sinh (Trung tâm Sơ sinh - Bệnh viện Nhi Trung ương), với trẻ sinh mổ chủ động, tức là được đưa ra khi chưa có chuyển dạ, quá trình chuẩn bị tự nhiên bị bỏ qua. Phổi của trẻ còn chứa nhiều dịch, nguy cơ suy hô hấp tăng cao. Thực tế lâm sàng cho thấy, không ít trẻ sinh mổ chủ động phải thở máy, thậm chí cần đến các biện pháp hồi sức đặc biệt. Một số trường hợp nặng có thể dẫn tới tử vong. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp ở trẻ sinh mổ chủ động cao gấp 2,6 lần so với mổ có chuyển dạ và gấp 1,9 lần so với sinh thường.”