Chòng chành đời chèo đò nơi cảng cá
Ở cảng cá Thọ Quang (Sơn Trà, Đà Nẵng) mỗi ngày có hàng trăm chiếc tàu công suất lớn thay nhau cập cảng bốc dỡ cá. Bên cạnh đó, nhiều năm qua, nơi đây vẫn tồn tại những con đò nhỏ chòng chành, lay lắt với gánh nặng mưu sinh.
"Đò ơi...!”, tiếng gọi văng vẳng lên giữa rì rào sóng nước nơi cảng cá Thọ Quang. Tôi nghe tim mình như thắt lại khi hình ảnh một người phụ nữ quày quả với mái chèo trên con đò nhỏ như chiếc lá, lay lắt giữa dòng nước bung biêng.
Mấy chục năm rồi, cảng cá Thọ Quang này vẫn thế, không ít người vẫn bám lấy con đò nhỏ ngày ngày mưu sinh bằng những con đò nhỏ bé với gánh nặng mưu sinh. Họ hầu hết là phụ nữ, trót gắn bó với chiếc xuồng, chiếc ghe, với nắng mưa, gió bão khắc nghiệt để kiếm chút tiền công ít ỏi nuôi gia đình. Mấy chục con đò tập trung lại với nhau tạo nên một “xóm đò”, một bến đò nhỏ giữa cảng cá sầm uất...
Trò chuyện với chúng tôi, Dì Chín - người ở làng cá Nại Hiên Đông (Sơn Trà, Đà Nẵng) - cho biết: “Trước đây, dân chèo đò đưa người qua hai bờ sông Hàn. Từ khi những câu cầu nối đôi bờ sông hoàn thành, chẳng còn ai đi đò nữa, nhiều người chèo đò lần mò đến bến cá Thọ Quang để kiếm sống”.
Những người chèo đò tại đây không chịu sự quản lý hay giám sát của ai, nhưng làm việc khá nguyên tắc, nghiêm túc và rất “tình người” trong việc phân chia công việc để ai cũng có việc, ai cũng có thu nhập, không tranh giành lẫn nhau. Đò của ai đến trước tại bến sẽ được đón khách trước. Cứ theo thứ tự lượt về bến mà xoay vòng. Một lượt chèo, người lái đò được trả 5.000 đồng/người. Không chỉ phân chia theo vị trí, họ còn phân chia theo đặc điểm công việc như người chở cá vụn, người chở cá lớn, người chở mực, người chuyên đưa người. Có người chuyên chở cá cho tàu Đà Nẵng, có người chỉ chở cá cho tàu Quảng Ngãi, Bình Định... Vì thế, ai cũng có mối lái quen thuộc của mình nên việc tranh giành khách không hề tồn tại.
Có một điều ít người biết, đó là sự đùm bọc, tình cảm khăng khít của những người chèo đò. Những người có hoàn cảnh khó khăn ít thường nhường cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hơn chở thêm vài chuyến trong ngày, kiếm thêm dăm nghìn đồng lo cho gia đình. Thông thường, có 3-4 chiếc đò đậu một chỗ để dễ dàng hỗ trợ nhau. “Những chuyến đò khi ấy là chuyến đò nghĩa tình. Ở đây ai cũng khổ, chị em hiểu nhau, thương nhau còn không hết nữa là, tranh giành nhau làm chi!” - chị Loan, người có thâm niên hơn 10 năm chèo đò, khẽ khàng nói.
Trung bình mỗi người chèo đò kiếm được 70-100 nghìn đồng/ngày. Những ngày mở biển, số tàu ra vào nhiều, người chèo đò kiếm được khoản tiền cao hơn đôi chút. Nhưng những ngày biển động, hay mùa mưa bão, họ chẳng có thu nhập do tàu cá không ra khơi được.
Hơn 20 năm chèo đò, bà Nguyễn Thị Thịnh (sinh năm 1968) đặc tả công việc của mình bằng một chữ “khổ”. Tựa tay lên mái chèo, bà tâm sự: “Nhà có 4 đứa con, hằng ngày chúng xin tiền mua bút, vở, đứa xin tiền học. Rồi bữa cơm hằng ngày, thuốc thang khi chồng con đau ốm, tiền hiếu hỷ, lễ nghĩa, rồi dựng vợ gả chồng cho con đều nhờ con đò này. Vậy nên, nhiều lúc, chị em chúng tôi tặc lưỡi: Khổ thì kệ! Xấu cũng kệ!”.
Ở cảng cá Thọ Quang có 40 người hành nghề chèo đò, đa phần là phụ nữ. Nhìn những chiếc đò nhỏ mưu sinh giữa dòng nước, ai biết được mỗi nhịp chèo ấy chất chứa bao nỗi niềm vui, buồn khôn tả. Trong số họ có những người gắn chặt đời mình với nghiệp chèo đò, tuổi xế chiều vẫn không có một mái nhà đúng nghĩa để an cư. Có những chị có chồng như không có, có chị đến với nghề vì mưu sinh, có người nối nghiệp chèo đò của mẹ...
Mỗi ngày, họ chèo đò để về cảng Thọ Quang, dốc hết sức lực đưa khách ra, vào bờ, chở cá vào bến, đưa nguyên liệu, nhu yếu phẩm, đá lạnh ra tàu... Đến tối mịt, họ trở về nhà khi đã sức cùng lực kiệt. Không chỉ hoạt động ban ngày, đêm đến, bến đò vẫn không thiếu tay chèo, nhưng ít hơn. Có người không về nhà trọ, họ chọn ngủ tại đò để sáng sớm có thể bắt đầu công việc được ngay. Bao nhiêu năm qua, giấc ngủ của họ chòng chành trên sóng nước... Đến bây giờ, thời gian đo đếm nghiệp chèo đò của họ đã tới hàng chục năm, người ít tuổi nhất là 10 năm, người dày dặn gió sương hơn 30 năm.
Không chỉ chèo đò, nhiều phụ nữ sức yếu, không chèo nổi cả ngày nên tranh thủ chèo đò rước khách buổi sáng, rồi chiều tìm công việc đan lưới, bán cá kiếm thêm được đồng nào hay đồng đó. “Khổ thì khổ nhưng cũng vui”, một người phụ nữ gầy guộc thủ thỉ.
Chị Huỳnh Thị Mai, chồng bị nạn trong cơn bão khi đi đánh bắt xa bờ, tâm sự: Bao năm trời chị gồng gánh một nách 4 đứa con, nhưng may mắn chúng đều ngoan và học giỏi, như tiếp thêm động lực cho chị ngày ngày chèo đò. Bây giờ, 3 đứa đã tốt nghiệp đại học, lập gia đình, đứa út đang là học sinh một trường chuyên có tiếng tại Đà Nẵng. Niềm vui nhân đôi khi mới đây chị xây được nhà đúc kiên cố để ở, đỡ khổ hơn bao chị em chèo đò khác. “Khổ mấy tôi cũng chịu được, miễn cho con học hành đến nơi đến chốn, không uổng phí những tháng ngày cực nhọc chèo đò”, chị Mai nói.
Chiều về trên cảng cá, giữa sóng nước rì rào vẫn có những chiếc đò chòng chành với bóng người nhỏ bé, chao nghiêng theo con nước như chính số phận của họ vậy. Làn da sạm nắng, lam lũ, vất vả, nhưng nụ cười của họ vẫn rạng rỡ niềm vui.
Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/chong-chanh-doi-cheo-do-noi-cang-ca-647051.html