Christian Lambertsen - nhà phát minh của OSS
Những quân nhân của Cục tình báo chiến lược (OSS) đã chế tạo nên nhiều thiết bị kỳ diệu cho nhu cầu sử dụng thời chiến: than phát nổ, mực tàng hình, các loại độc không vị, máy ảnh siêu nhỏ cùng những loại dao kỳ dị. Nhiều số trong đó đã được chế tạo sau khi Thế chiến II kết thúc và được tích hợp vào kho vũ khí quân sự.
Một trong những phát minh như thế đã được thiết kế bởi Tiến sĩ Christian Lambertsen mà ngày nay nó được biết đến bởi tên gọi SCUBA (bình dưỡng khí). Tiến sĩ Lambertsen là một sĩ quan của OSS nói riêng và quân đội Mỹ nói chung, ông đã kinh qua nghiên cứu về sinh lý học hô hấp tại trường y. Ông đã trực tiếp chịu trách nhiệm về phần lớn công nghệ được dùng trong các hoạt động bơi lội chiến đấu (CSO) của quân đội Mỹ.
Những phát minh của ông đã đặt nền móng cho công nghệ được dùng bởi NASA, Hải quân SEALs, lực lượng Mũ Nồi Xanh, lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ (USCG) và những người nhiệt thành với môn lặn trên toàn thế giới. Vì công lao này mà bác sĩ Lambertsen được tôn vinh là “Cha đẻ của người nhái” và “Cha đẻ của SCUBA Mỹ”. Tiến sĩ Christian Lambertsen - nhà phát minh, nhà môi trường, giáo sư, khoa học gia, cựu binh chiến đấu, giám đốc y khoa cũng như là nhà tiên phong trong y học hàng không không gian và dưới biển - là một trong những nhà phát minh OSS có tầm ảnh hưởng nhất trong lịch sử.
Thiết bị thở dưới nước
Sinh tháng 5/1917, cậu bé Christian lớn lên gần vùng biển New Jersey. Nhận thức từ thuở đó là cậu muốn theo học y, cậu học Đại học Rutgers trước khi ghi danh theo học tại trường y của Đại học Pennsylvania. Christian thường nghỉ hè ở Jersey Shore, đó cũng là nơi mà cậu cùng những người em họ bắt đầu thử nghiệm với các thiết bị thở dưới nước. Họ sử dụng một hệ thống thô sơ bao gồm chiếc bơm xe đạp, một chiếc vòi, một chiếc túi và một mẩu bịt miệng. Sau khi mày mò tinh chỉnh thiết bị một cách cố gắng, Christian đã thông báo cho giáo sư sinh lý học của mình - Tiến sĩ Henry Bazett. Bị ấn tượng bởi nguyên mẫu và nhìn thấy tiềm năng thực sự, Tiến sĩ Bazett bắt đầu liên hệ với nhiều tổ chức khác nhau mà ông tin họ sẽ quan tâm tới phát minh của cậu sinh viên của mình. Chủ tịch của Công ty sản xuất và hóa chất Ohio đã trở nên bị mê hoặc và cung cấp cho chàng sinh viên Christian một công việc trả lương cao.
Ông muốn Christian dùng thiết bị gây mê của mình để chế ra cỗ máy thở dưới nước cho những mục đích cứu hộ. Christian nhận việc và bắt đầu thử nghiệm thiết bị của mình ở hồ Erie và hồ Nokomis. Trong một lần thí nghiệm nọ, lúc ở độ sâu 18m, mắt và chân của Christian bắt đầu co giật. Ông giật mạnh sợi dây an toàn, dấu hiệu cho thấy cần phải kéo ông lên mặt nước và thấy sợi chão rơi xuống đáy hồ. Christian và đồng nghiệp chưa từng cột chão vào thuyền. Nhưng may thay, Christian đã kịp bơi lên mặt nước và sống sót. Sau mùa hè đó, ông quay lại trường y, chiến tích của ông đã được phát sóng trên toàn quốc. GS Bazett đã công bố bản mô tả về thiết bị thở trên Thời báo Hiệp hội Y khoa Mỹ.
Dù được hình thành dưới nước nhưng buổi ban đầu Christian cho rằng thiết bị của mình có thể dùng trong lòng đất, cụ thể là những thợ mỏ bị mắc kẹt đang chờ được giải cứu. Tuy nhiên khi Thế chiến II bùng nổ, GS Bazett (cựu sĩ quan quân đội Anh) đã nhìn ra các ứng dụng quân sự của thiết bị thở này. Tháng 1/1941, Christian và GS Bazett đến Washington, D.C. để gặp Đơn vị lặn thử nghiệm hải quân (NEDU). Mặc dù mô tả thiết bị của họ không gây ấn tượng với hải quân, tuy nhiên hơn bao giờ hết, Christian đã bị thuyết phục rằng thiết bị của ông không thích hợp để cứu hộ quân sự, điều này có nghĩa rằng nó cần phải được đại tu khâu thiết kế và cần thử nghiệm nhiều hơn. Một năm sau, Christian quay lại Washington, D.C. để trình diễn thiết bị đã được tái cấu hình của mình. Lần này, với sự tham dự của các nhân vật quan trọng của Cục chiến dịch đặc biệt (SOE, Anh) và OSS. Christian đã nhảy xuống hồ bơi tại khách sạn Omni Shoreham để trình bày phát minh của mình. Christian đã tạo ra cái mà ông gọi là LARU (Đơn vị hô hấp lưỡng cư Lambertsen - một thiết bị thở độc lập dưới nước).
Hệ thống LARU chứa bộ lọc carbon dioxide cho phép thợ lặn được hít lại thứ không khí mới thở ra trong lúc đang ở dưới nước. Do cấu hình của thiết bị, nó không giải phóng ra bất kỳ bong bóng khí nào, không để lộ thứ gì đó nằm bên dưới. Những người đàn ông quan sát từ mặt nước bể bơi khi Christian đang bơi bên dưới và không có bằng chứng nào cho thấy ông đang ở dưới nước: không nổi lên bất kỳ bọt khí nào. Khả năng bơi dưới nước mà không bị phát giác đồng nghĩa là sự khác biệt giữa nhiệm vụ thất bại và thành công. Bằng cách dùng LARU, thợ lặn có thể bơi ở độ sâu 15m và duy trì dưới đó suốt hàng chục phút, cho phép anh ta có thể bơi xa cả hải lý. Phát minh của Christian cho thấy sự hoàn hảo cho các hoạt động mật. Trước khám phá của Christian, các thợ lặn quân sự phải đội những cái mũ bảo hiểm kim loại to lớn, gồ ghề và bức bối. Loại mũ bảo hiểm này cung cấp không khí từ một cái vòi gắn trên tàu / thuyền nổi, hạn chế nghiêm trọng bán kính mà họ có thể bơi.
Christian được phong quân hàm Thiếu úy Quân y, nơi ông đã phục vụ từ năm 1944 đến năm 1946. Lúc mới làm việc cho OSS, Christian đang học năm cuối trường y.
Đơn vị xâm nhập đường biển của OSS
Cũng trong khoảng thời gian này, OSS đã thành lập ra Đơn vị hàng hải chuyên thực hiện các hoạt động xâm nhập, phá hoại dưới nước, xâm nhập điệp viên, tiếp tế cho các nhóm kháng chiến bằng đường biển. Họ cũng được giao nhiệm vụ phát triển các thiết bị và dụng cụ hàng hải chuyên biệt. OSS chỉ định Christian phát triển trang bị lặn, và ông đã vui vẻ nhận lời. Christian vẫn còn là sinh viên y khi dạy lớp đầu tiên của Các nhóm bơi hoạt động OSS (OSG) vào 5/1943 tại Học viện Hải quân ở Annapolis (tiểu bang Maryland). OSG từng được giao nhiệm vụ đào tạo về nhiệm vụ phá hoại tại vịnh Biscay cho sự kiện xâm lược D-Day, song nhiệm vụ của họ đã bị loại bỏ do thiếu nguồn lực. Nhóm OSG thứ hai được đào tạo ở Nassau (thủ đô của quốc đảo Bahamas) trước khi được triển khai đến Hawaii để phục vụ dưới trướng Đô đốc Chester Nimitz, tổng tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ.
Các OSG này đã tạo ra Những đội phá hủy dưới nước của Hải quân Mỹ (UDT) cách dùng thiết bị thở dưới nước, và làm thế nào để bơi bằng chân vịt. Tháng 6/1944, Christian quay lại Bahamas để dạy các nhóm OSG khác. Một ngày nọ, trong lúc mô tả thiết bị của mình, Christian bất tỉnh và chìm xuống. Cho rằng đó là một phần của bài học, các học viên không để ý cho tới khi họ nhận ra ông thầy đang gặp rắc rối. Họ tập trung giải cứu thầy - người quên làm sạch túi thở để ngăn ngừa tình trạng thiếu ô xy do pha loãng (một thực hành mà Christian liên tục lặp đi lặp lại cho các học viên của mình). Khi tỉnh lại, Christian lại nhảy xuống nước để tiếp tục bài dạy. Nhóm học viên đặc biệt này không chỉ học lặn mà còn thử nghiệm thiết bị được OSS chế tạo như đồng hồ và la bàn không thấm nước, một ván lướt sóng có động cơ bơm hơi, xuồng Kayak 2 người vận hành và những chiến thuật hoạt động để phá hủy và trinh sát đêm.
Sau khi hoàn tất, các học viên OSG phải trình bày khả năng của họ tại Căn cứ Hải quân vịnh Guantanamo (Cuba) trong tháng 9/1944. Cuộc tập trận quy mô này có tên là Chiến dịch Cincinnati, được thiết kế nhằm xem xét khả năng phòng thủ của hải quân, đánh giá hiệu quả khả năng của nhóm mới trong việc tiến hành các hoạt động trinh sát, thâm nhập và phá hoại bằng đường biển. Đây là cuộc tập trận đầu tiên trong môi trường biển thực tế. Được trang bị la bàn chống thấm nước, đèn pin chống thấm nước, và chân vịt, các thợ lặn sẽ xâm nhập vịnh Guantanamo vào ban đêm. Họ dễ dàng vượt qua lưới ngư lôi giăng quanh bến cảng. Họ tiếp cận các mục tiêu, cài thuốc nổ, làm nổ tung một sà lan cũ. Một báo cáo tuyệt mật của chính phủ Mỹ ghi nhận thành công của nhiệm vụ là nhờ khả năng lặn không bị phát hiện bởi thiết bị phát hiện âm thanh của Hải quân Mỹ. Một thời gian ngắn sau đó, các OSG được tách ra và triển khai đến các chiến dịch ở Trung Quốc, Myanma, Ấn Độ… để tiến hành các nhiệm vụ xâm nhập và gián điệp dưới nước.
Một cỗ máy dưới nước khác mà Christian đã giúp chế tạo ra là ca nô lặn có động cơ mang biệt danh “Người đẹp ngủ trong rừng”. Chiếc ca nô được chế tạo bởi Cục chiến dịch đặc biệt (SOE, Anh) và chở theo 1 “người nhái” để tiến hành trinh sát mật hoặc tấn công tàu địch. Năm 1944, chiếc ca nô tuyệt mật được mang tới Mỹ, và Christian bắt đầu một chương trình nhằm đào tạo các học viên OSS cách vận hành nó. Thay vì điều hướng ca nô trực tiếp đến mục tiêu, ông dạy các học viên cách neo đậu nó cách mục tiêu vài trăm mét. Từ đó, người nhái sẽ bơi đến mục tiêu và đặt thuốc nổ, rồi lặng lẽ rút êm lên ca nô. Khái niệm này đã dọn đường cho phương tiện chở người bơi (được dùng bởi UDT và SEALs) nhiều năm sau đó.
“Cha đẻ của người nhái” và y học vũ trụ
Năm 1945, Tổng thống Truman ký lệnh giải tán OSS nhưng Christian vẫn là Đại úy của quân đội Mỹ. Khi quay lại Mỹ, ông được chỉ định làm việc ở một quân y viện. Vẫn tin rằng thiết bị của mình làm lợi cho quân đội, ông đã giải mật LARU-X và trao cho 2 nước Anh, Mỹ, mỗi nước 2 thiết bị này cho các lực lượng hải, lục, tuần duyên, cùng với những hướng dẫn chi tiết cách hoạt động. Nhận ra giá trị trong công tác cứu hộ và phục hồi trên biển, Tuần duyên Mỹ đã hạ lệnh cho Christian gấp rút đào tạo các huấn luyện viên về LARU. Lục quân bị ấn tượng với kiến thức chuyên môn sâu về sinh lý học hô hấp của Christian và đề nghị ông làm việc cho Quân đoàn công binh về công tác hậu cần cho các hoạt động trên sông. Năm 1946, Christian giải ngũ với quân hàm Thiếu tá. Ông đến Đại học Pennsylvania, nghiên cứu về sinh lý học của ô xy và độc tính của nó, và trở thành Giáo sư.
Năm 1947, Trung tá hải quân Douglas Fane đã liên hệ với Christian để được giúp đỡ trong việc cứu các UDT (Những đội phá hủy dưới nước của Hải quân Mỹ) khỏi bị xuất ngũ. Christian lên đường đến Norfolk (Virginia) để đào tạo các UDT trong những hoạt động bơi chiến đấu và lặn chiến thuật của OSS cùng với LARU và “Người đẹp ngủ trong rừng” (ca nô đặc biệt). Mặc dù bị giảm quân số nhưng các UDT không bị giải tán và trở thành tiền thân của Hải quân SEALs. Trong 2 thập niên 1950, 1960, Christian đã phát triển ra phiên bản tiên tiến của hệ thống thở dưới nước và được SEALs duy trì sử dụng đến thập niên 1980. Ông cũng giành phần lớn thời gian trong giai đoạn đó để nghiên cứu về y học dưới biển và y học cao áp (y học dùng ô xy ở mức độ lớn hơn áp suất khí quyển).
Nhà phát minh Christian Lambertsen sống những năm cuối đời ở bờ Đông của tiểu bang Maryland để nuôi gia súc, nuôi ong mật, và làm vườn. Những đóng góp của Christian đối với sinh lý học lặn, nghiên cứu dưới biển và y học cao áp, điều trị y học, khoa học thủy vũ trụ, khoa học y sinh, và khoa học môi trường… vẫn chưa có đối thủ. Ông tạ thế năm 2011, thọ 93 tuổi. Tro cốt của nhà phát minh được rải trong vùng nước sạch, ấm áp ở ngoài khơi Key West, Florida.