Chủ con trâu húc bé gái 4 tuổi tử vong đối diện với trách nhiệm pháp lý nào?
Tùy vào kết luận chính thức của cơ quan chức năng, chủ con trâu húc bé gái 4 tuổi ở Nghệ An tử vong, có thể sẽ chịu trách nhiệm dân sự, hành chính, thậm chí là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như PLO đã đưa tin, chiều 23-8, tại xã Nga My, tỉnh Nghệ An đã xảy ra một vụ việc đau lòng. Bé Bảo Tr (4 tuổi; trú xã Nga My, tỉnh Nghệ An) khi đang vui chơi gần nhà đã bị một con trâu của hàng xóm húc mạnh vào người, dẫn đến bé không qua khỏi.
Từ đây, nhiều người đặt ra câu hỏi về trách nhiệm pháp lý của chủ trâu trong trường hợp này là gì?

Người dân chạy tới xua đuổi con trâu, bế bé Bảo Tr đi cấp cứu.
Trao đổi với PLO, Luật sư Lê Văn Bình, Đoàn Luật sư TP.HCM, cho biết tình trạng chăn thả gia súc không cẩn thận dẫn đến gia súc gây thiệt hại cho người khác không phải là hiếm gặp.
Khi các trường hợp này xảy ra, sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2022 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ 3 yếu tố: (1) Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác; (2) Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Rõ ràng trong trường hợp này đã hội đủ 3 yếu tố trên, tính mạng của bé Tr bị xâm hại có nguyên nhân xuất phát từ việc bị trâu húc dẫn đến tử vong.
Vấn đề tiếp theo là xác định chủ thể bồi thường thiệt hại, Điều 603 BLDS 2015 quy định bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra xác định rõ chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác.
Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Về nguyên tắc thì chủ sở hữu súc vật phải có trách nhiệm bồi thường do súc vật gây ra, tuy nhiên trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì không phải bồi thường. Do vậy trong trường hợp này cần xác định lỗi của các bên.
Theo như diễn biến nội dung vụ việc thì bé Tr đang vui chơi gần nhà thì bị trâu đang đi gặm cỏ trên đường về húc bé.
Có thể thấy chủ con trâu đã thả rông, không quản lý tốt súc vật của mình nên có lỗi trong việc để súc vật gây thiệt hại cho người khác.
Nhìn ở góc độ ngược lại, cơ quan chức năng cũng cần làm rõ bé Tr trước khi bị trâu húc có hành vi trêu chọc trâu hay không (trâu bản chất là động vật hoang dã), nếu bé Tr có hành vi trêu chọc trâu thì cũng có một phần lỗi, khi đó trách nhiệm bồi thường của chủ trâu sẽ giảm đi.
Căn cứ Điều 591 BLDS, Nghị quyết 02/2022 của TAND Tối cao thì thiệt hại do tính mạng bị xâm bao gồm: (1) Các thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm sức khỏe cho đến thời điểm người đó chết (chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, thu nhập thực tế bị mất, giảm sút); (2) Chi phí hợp lý cho việc mai táng; (3) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc nuôi dưỡng trước khi chết.
Ngoài ra, người bồi thường phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần. Mức bồi thường do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Về trách nhiệm đối với Nhà nước, chủ trâu có thể bị xử phạt hành chính từ 300.000 - 500.000 đồng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị định 144/2021 về hành vi thả rông động vật nuôi trong đô thị hoặc nơi công cộng.
Ở mức độ nghiêm trọng hơn, cơ quan chức năng có thể xem xét về tội vô ý làm chết người theo quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025).
Với tội danh này, người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 1-5 năm.