Chùa Hà - Ngôi chùa linh thiêng cầu tình duyên giữa lòng Hà Nội

Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, trước kia thuộc làng Dịch Vọng (tên nôm là làng Vòng).

Có hai truyền thuyết về chùa Hà.

Truyền thuyết thứ nhất

Vào thời Lý, khi vua Lý Thánh Tông trị vì, lúc đã 42 tuổi mà vẫn chưa có con, nên đã cầu tự ở một ngôi chùa và sinh ra Thái tử Càn Đức. Do đó, ngôi chùa này được gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện ấy. Trên đường đi, vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu. Chính vì vậy, chùa này (chùa Hà) có tên là Thánh Đức tự.

Truyền thuyết thứ hai

Chùa Hà được xây dựng để vua Lê Thánh Tông bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt… những người đã phế bỏ Lê Nghi Dân và phò tá ông lên ngôi vào năm 1460.

Lịch sử và kiến trúc

Trải qua nhiều phen binh hỏa, chùa Thánh Đức bị phá hủy nhiều lần. Đến năm 1680, chùa vẫn còn lợp lá gồi, tường xây bằng gạch vồ nên dân gian gọi là chùa Vồi. Đời vua Lê Hy Tông (1675 - 1705), có hai người quê ở làng Thổ Hà (tỉnh Bắc Giang) sang ở chùa để buôn bán gốm sứ tại chợ trong và ngoài thành Thăng Long. Nhờ làm ăn phát đạt, hai gia đình này cùng nhân dân địa phương đã công đức số tiền lớn để xây dựng lại chùa quy mô hơn bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó, hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có ngôi chùa là Bối Hà, và chùa được gọi nôm là chùa Hà.

Kiến trúc chùa nằm trong khoảng không gian rộng thoáng. Ngoài cùng là cổng Tam quan hai tầng, có cầu thang lên phía trái. Tầng trên xây kiểu chồng diêm; giữa bờ đinh mái thượng đắp nổi hình mặt trời lửa đặt trên hổ phù; hai đầu kìm đắp hình rồng đuôi xoắn, miệng ngậm bờ nóc; mái lợp giả ngói ống. Tầng dưới chia ba gian, có 12 cột trụ xây nổi trên mặt tường; Tam quan có ba vòm cửa, cửa giữa rộng hơn.

Tầng hai Tam quan treo chuông đồng Thánh Đức tự, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) - một di vật thời Tây Sơn còn nguyên vẹn. Chuông cao 1,20m, chu vi đáy 1,80m, đúc tinh tế. Phần trên bốn múi chuông khắc nội dung văn chuông, phần dưới khắc tứ linh: long – ly – quy – phượng, cách điệu nhưng rất sống động. Phía trên có hai con bồ lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông.

Chùa Hà quay mặt hướng Tây, kết cấu kiểu chữ Đinh, gồm Tiền đường và Thượng điện. Tam bảo có năm gian rộng. Phật điện bố trí nhiều lớp:

Lớp cao nhất là ba pho Tam thế.

Lớp thứ hai là ba pho Tam Thánh.

Phía dưới tượng A Di Đà là tượng A Nan Đà và Đức Ông.

Phía ngoài chính điện, giáp đại bái, có tượng Thích Ca sơ sinh. Ở bái đường, nổi bật là tượng Thiên Tướng Hộ Pháp cao lớn, mặc áo giáp vàng, ngồi trên con sấu. Hai bên đầu hồi đặt tám vị Thần Vương Hộ Pháp.

Phía sau chính điện là Điện Mẫu, gồm phương đình phía trước và Thần điện phía sau. Trong phương đình đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn. Nhà bái đường phía sau có năm gian kiến trúc cổ. Gian chính giữa đặt tượng Mẫu Thượng Thiên mặc áo đỏ; bên trái là Mẫu Thượng Ngàn áo xanh; bên phải là Mẫu Thoải áo trắng. Ngoài ra còn có tượng các ông hoàng, bà chúa, các cô, các cậu. Đặc biệt, bức phù điêu Bát Tiên treo bên trái hồi rất sinh động.

Bàn thờ phía dưới cùng của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan (Quan Năm Dinh), tượng trưng bằng năm mãnh hổ với màu sắc khác nhau.

Tín ngưỡng dân gian

Khác với nhiều ngôi chùa chủ yếu thu hút tầng lớp trung niên và cao niên đến lễ bái, chùa Hà lại đông đảo học sinh, sinh viên tìm đến để cầu tình duyên.

Dân gian tin rằng chùa Hà rất linh nghiệm trong cầu nguyện về thi cử, học hành và tình duyên. Nhiều nam thanh nữ tú (nhất là những người đang cô đơn, lẻ bóng hay gặp trắc trở trong chuyện gia đình) thường đến chùa dịp đầu xuân để cầu mong sớm gặp được ý trung nhân, hoặc tình yêu sớm đơm hoa kết trái, gia đình hạnh phúc viên mãn.

Dân gian cũng có câu truyền tụng: “Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương”, để nói về sự linh thiêng của Đức Ông chùa Hà.

(Trích từ Vào chùa lễ Phật: Những điều cần biết - Đặng Xuân Xuyến; NXB Văn hóa Thông tin, 2006)

Đặng Xuân Xuyến

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/chua-ha-ngoi-chua-linh-thieng-cau-tinh-duyen-giua-long-ha-noi-a29976.html