Chuẩn hóa từ gốc - mệnh lệnh sống còn cho nông sản Việt
Việc các thị trường lớn như Trung Quốc và Liên minh châu Âu (EU) đồng loạt siết chặt quy trình kiểm soát chất lượng nông sản không chỉ là hồi chuông cảnh báo, mà còn là động lực buộc ngành nông nghiệp phải thay đổi tận gốc, từ quy trình canh tác, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, đến kiểm soát dư lượng kim loại nặng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Sầu riêng bày bán tại một siêu thị trên địa bàn Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Đăng.
Áp lực kiểm soát chất lượng
Chỉ vài tháng sau khi Trung Quốc tăng cường kiểm soát chất lượng với mặt hàng sầu riêng Việt Nam, EU tiếp tục gây thêm áp lực khi dự kiến cử đoàn thanh tra đến Việt Nam vào giữa tháng 6. Các mặt hàng nằm trong “tầm ngắm” lần này gồm sầu riêng, thanh long và ớt, ba loại nông sản chủ lực có giá trị xuất khẩu cao.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đoàn thanh tra EU sẽ trực tiếp kiểm tra tại Tiền Giang, Long An, Bình Thuận và TP Hồ Chí Minh. Mục tiêu là đánh giá biện pháp kiểm soát thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật xuất khẩu sang EU.
Tại mỗi điểm đến, họ sẽ rà soát toàn bộ chuỗi giá trị: từ vùng trồng, cơ sở đóng gói, chế biến, đến hệ thống kiểm nghiệm chất lượng trong nước. Áp lực này càng gia tăng khi các mặt hàng nông sản Việt hiện đã bị EU kiểm tra ngẫu nhiên ở mức cao: ớt chuông và đậu bắp tới 50%, thanh long 20%, sầu riêng 10%. Nếu không sớm khắc phục những điểm yếu nội tại, khả năng cao là nhiều lô hàng sẽ bị trả về, gây tổn thất không nhỏ cho ngành hàng và ảnh hưởng đến uy tín quốc gia.
Ở chiều ngược lại, Trung Quốc vừa có động thái tích cực khi Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) phê duyệt thêm 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng trong đợt xét duyệt ngày 21/5. Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã có tổng cộng 1.396 mã vùng trồng và 188 cơ sở đóng gói được Trung Quốc công nhận một bước tiến lớn cho hoạt động xuất khẩu chính ngạch. Tuy nhiên, như Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt cảnh báo, số lượng mã vùng tăng nhanh không đồng nghĩa với việc chất lượng sản phẩm đã được bảo đảm tuyệt đối. “Đây chỉ mới là điều kiện đầu vào”, ông Đạt nhấn mạnh. Điều kiện “đầu ra”, tức việc duy trì chất lượng ổn định, truy xuất được nguồn gốc và đáp ứng yêu cầu kỹ thuật mới là thách thức thật sự.
Một ví dụ điển hình là vấn đề tồn dư Cadimi – kim loại nặng có hại cho sức khỏe con người, được phát hiện trong một số mẫu sầu riêng xuất khẩu. Phân tích cho thấy, nguyên nhân đến từ hai yếu tố chính: đặc điểm thổ nhưỡng tại một số vùng trồng vốn đã chứa Cadimi tự nhiên ở mức cao, và việc lạm dụng phân bón hóa học, khiến cây vô tình hấp thụ kim loại nặng vượt mức cho phép.
Chuẩn hóa từ gốc
Trước thực trạng trên, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đã yêu cầu các địa phương khẩn trương rà soát lại điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, cơ sở hạ tầng để xác định vùng trồng phù hợp. Việc mở rộng diện tích trồng sầu riêng không thể chạy theo phong trào mà phải dựa trên cơ sở khoa học, tuyệt đối tránh việc xâm lấn đất rừng, đất dốc gây mất cân bằng sinh thái.
Đồng thời, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm, đẩy mạnh đàm phán với Trung Quốc nhằm mở rộng vùng trồng và công nhận thêm cơ sở đóng gói. Song song, bộ cũng sắp ban hành hướng dẫn cụ thể về dư lượng Cadimi và chất vàng O – một loại phẩm màu công nghiệp bị cấm sử dụng trong thực phẩm, để làm căn cứ kiểm soát chất lượng. “Chúng ta cần chuẩn hóa quy trình canh tác sầu riêng theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), từ khâu chọn giống, bón phân, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cho đến thu hoạch và đóng gói. Bón phân phải cân đối, hợp lý, tránh sử dụng loại có chứa kim loại nặng. Đó là cách duy nhất để bảo vệ đất, cây trồng và sức khỏe người tiêu dùng”, ông Huỳnh Tấn Đạt nhấn mạnh.
Một điểm then chốt trong yêu cầu từ phía Trung Quốc và các thị trường cao cấp là hệ thống truy xuất nguồn gốc. Theo Nghị định thư ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc, tất cả các bên tham gia chuỗi giá trị, từ người nông dân đến DN xuất khẩu đều phải tuân thủ ba yêu cầu: đảm bảo an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật và áp dụng hệ thống truy xuất minh bạch. Điều này đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của toàn bộ hệ thống chính quyền địa phương, hiệp hội ngành hàng và DN. Không thể chỉ trông chờ vào nỗ lực từ trung ương, bởi chính các địa phương mới là nơi nắm rõ điều kiện tự nhiên và có thể tác động trực tiếp đến người dân. Cần xây dựng cơ chế hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường, hướng dẫn cách sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đúng cách và an toàn.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, các thị trường đều nâng cao hàng rào kỹ thuật, việc giữ được chỗ đứng cho nông sản Việt không thể dựa vào giá rẻ mà phải nhờ vào chất lượng và sự minh bạch. Điều này không chỉ đúng với sầu riêng mà còn đúng với thanh long, ớt, đậu bắp và nhiều loại trái cây khác. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo các Chi cục Kiểm dịch thực vật bố trí cán bộ trực tiếp tại các vùng trồng, hỗ trợ DN thực hiện kiểm dịch ngay tại cơ sở để rút ngắn thời gian thông quan. Đây là bước đi chiến lược nhằm giúp hàng hóa đến tay người tiêu dùng nhanh hơn, tươi hơn và giảm chi phí xuất khẩu.
Tuy nhiên, tất cả chỉ hiệu quả nếu người nông dân nhận thức được vai trò của mình và thay đổi cách làm. Không còn chỗ cho thói quen sản xuất tùy tiện, lạm dụng hóa chất hay chạy theo lợi nhuận ngắn hạn. Muốn tồn tại và phát triển, nông nghiệp Việt Nam phải thực sự chuyển mình theo hướng chuyên nghiệp, bền vững và có trách nhiệm. Việc EU và Trung Quốc siết chặt kiểm soát chất lượng nông sản là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam tự hoàn thiện mình. Muốn giữ vững thị trường, thậm chí vươn xa hơn, chúng ta phải chuẩn hóa quy trình sản xuất từ gốc, từ thửa ruộng đến bao bì. Đó không chỉ là yêu cầu của thị trường, mà còn là mệnh lệnh sống còn của ngành nông nghiệp Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa.
Vừa qua, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Công điện 71/CĐ-TTg về thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu sầu riêng bền vững. Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường làm việc với Hải quan Trung Quốc để thống nhất quy trình kiểm tra, công nhận mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, phòng thử nghiệm đạt chuẩn; đồng thời bố trí đủ nhân lực, thiết bị kiểm dịch và nâng cao năng lực xét nghiệm.