Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật?
Hiện nay, không ít trường hợp hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng, thậm chí có con chung nhưng không thực hiện việc đăng ký kết hôn. Vậy hành vi này có vi phạm pháp luật?
Thế nào là chung sống như vợ chồng?
Khoản 7, Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: "Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng".
Trên thực tế, tình trạng nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng tồn tại dưới nhiều dạng thức như: sống thử trước khi kết hôn, sinh hoạt chung như một gia đình, sống chung và có con chung nhưng không đăng ký kết hôn...
Vậy, chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn có phải là hành vi phạm pháp?
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn. Điều này có nghĩa là chỉ khi hai bên nam, nữ thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã - nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thì họ mới được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Ngược lại, nếu nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn mà chỉ chung sống với nhau như vợ chồng thì họ không phải là cặp vợ chồng hợp pháp.
Điều cần chú ý nữa là nam, nữ chung sống với nhau trước ngày 3/1/1987 thì không bắt buộc phải đăng ký kết hôn. Thời kỳ hôn nhân của họ được tính từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau (ngày tổ chức lễ cưới, ngày thực sự chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng…).
Còn các trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày 3/1/1987 thì phải đăng ký kết hôn mới được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp. Điều này cũng có nghĩa là sau ngày 3/1/1987, nếu chỉ tổ chức lễ cưới mà không đăng ký kết hôn sẽ không được coi là vợ chồng mà chỉ được xem như một trường hợp chung sống như vợ chồng.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì pháp luật không cấm việc chung sống như vợ chồng nếu không vi phạm về độ tuổi kết hôn và không thuộc các hành vi bị cấm như: đã kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chung sống như vợ chồng với người đã kết hôn...
Như vậy, việc chung sống như vợ chồng nếu không rơi vào các hành vi bị cấm được quy định tại Khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì không phải là hành vi vi phạm luật. Tuy nhiên, hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Bởi pháp luật chỉ thừa nhận là vợ chồng khi hai bên nam, nữ đã tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền.
Hậu quả của việc sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Về hậu quả của việc chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn của hai bên nam, nữ được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định như sau:
"1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn".
Với quy định trên, có thể hiểu mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau theo quy định của pháp luật sẽ không phát sinh với cặp đôi chung sống như vợ chồng. Điều này cho thấy nếu không đăng ký kết hôn mà chỉ chung sống như vợ chồng thì cả hai bên nam, nữ đều có thể bị bên còn lại xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp nếu họ cố tình lợi dụng quan hệ chung sống để mưu cầu lợi ích khác ngoài ý định xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.
Chẳng hạn như, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
Nếu đã tiến hành đăng ký kết hôn thì khi một bên vợ/chồng bị xâm phạm quyền lợi trên, họ sẽ có căn cứ pháp lý để yêu cầu pháp luật bảo vệ hoặc có thể khởi kiện ra Tòa. Và ngược lại nếu chỉ chung sống như vợ chồng thì không có khung pháp lý nào để đảm bảo quyền lợi khi xảy ra tranh chấp.
Quy định này của pháp luật đã thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong việc từ chối bảo hộ hôn nhân cho các bên xác lập quan hệ vợ chồng trên thực tế nhưng không tuân thủ quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn.
Tuy nhiên, để tạo cơ hội cho các bên nam, nữ chung sống như vợ chồng được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định cho họ có quyền đăng ký kết hôn vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình chung sống.
Kể từ thời điểm đã hoàn thành thủ tục đăng ký, các bên sẽ phát sinh các quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật. Hay nói cách khác, thời kỳ hôn nhân của họ sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cấm các hành vi sau đây:
- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Yêu sách của cải trong kết hôn;
- Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
- Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
- Bạo lực gia đình;
- Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Điều 182 Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định "Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng" như sau:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.