Chương mới của dòng phim chiến tranh?
Sau 10 ngày công chiếu, phim 'Mưa đỏ' được đạo diễn Đặng Thái Huyền chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Chu Lai đã đạt doanh thu hơn 300 tỷ đồng, đánh dấu cột mốc mới của dòng phim đề tài chiến tranh chiến tranh Việt Nam. Kết hợp với 'Địa đạo' của Bùi Thạc Chuyên thành công không kém trước đó, có thể thấy dòng phim nói trên đang có một đời sống mới.
Khó khăn tạo nên chân thật
Trong khuôn khổ Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần III diễn ra vào ngày 29.6 đến 5.7 vừa qua, có một chuyên đề thu hút khán giả ở nhiều thế hệ: Dấu ấn phim chiến tranh Việt Nam từ sau ngày đất nước thống nhất. Tại đây, hơn 20 tác phẩm tiêu biểu đã được trình chiếu, không chỉ cho thấy một thời gian khó mà anh dũng của dân – quân ta mà còn phần nào phản ánh sự thay đổi trong cách làm phim từ những ngày chiến tranh oanh liệt đến thời bình, kéo dài cho đến hiện nay.
Khởi đầu cho dòng chảy ấy phải kể đến những tác phẩm được sản xuất trong những tháng ngày kháng chiếnchống đế quốc Mỹ xâm lược. Bởi được thực hiện trong điều kiện hạn chế về cả kinh phí cũng như kỹ thuật, nên những tác phẩm như Chung một dòng sông (1959), Nổi gió (1966), Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972), Bài ca ra trận (1973), Em bé Hà Nội (1974) không có bối cảnh hoành tráng hay các góc máy đặc biệt, nhưng bởi là cuộc sống thực nên bù lại cả diễn xuất cũng như khung cảnh mà các bộ phim khắc họa vô cùng sống động, từ đó lan tỏa tình yêu nước nồng nàn cũng như tinh thần hy sinh cho mục tiêu chung: giành độc lập dân tộc.

NSND Lan Hương ghi dấu ấn trong bộ phim Em bé Hà Nội.
NSND Lan Hương thủ vai cô bé nổi tiếng trong Em bé Hà Nội từng chia sẻ, chính những trải nghiệm kinh hoàng trong 12 ngày đêm hứng chịu B-52 đã giúp bà hoàn thành xuất sắc vai diễn lần ấy. NSND Lan Hương chia sẻ: “Khi đóng phim, chỉ cần đạo diễn bảo nhớ lại những ngày tháng ấy, những lúc Hà Nội bị ném bom thì nỗi sợ hãi và giận dữ sống lại trong tôi, rất thật”.
Khi hòa bình lập lại, phim chiến tranh lại có sự thay đổi cả về số lượng cũng như hình thức. Từ việc chỉ đếm trên đầu ngón tay, trong sinh quyển mới, điện ảnh chiến tranh bắt đầu khởi sắc, có thể kể đến những tác phẩm nổi bật như: Cánh đồng hoang (1979), Mẹ vắng nhà, Mối tình đầu (1980), Bao giờ cho đến tháng Mười (1984), Lưỡi dao (1995)...

Cảnh phim Bao giờ cho đến tháng Mười.
Không dừng ở đó, hai loạt phim Ván bài lật ngửa (1982-1987), Biệt động Sài Gòn (1985) cũng đánh dấu lần đầu tiên xuất hiện các chủ đề gay cấn, hấp dẫn, xoáy sâu vào các hoạt động phản gián khiến công chúng lần đầu biết đến khía cạnh “giải trí” khi trước đó đa phần chỉ tập trung vào việc tả thực.

Hình ảnh trong bộ phim Biệt động Sài Gòn.
Những góc nhìn mới
Chặng đường thứ ba (khoảng từ sau năm 2000 cho đến gần đây) lại chứng kiến sự thay đổi về góc nhìn của các nhà làm phim. Từ việc mô tả trực diện nỗi đau chiến tranh thông qua các nhân vật trực tiếp tham chiến lẫn các đối tượng dễ bị tổn thương, giờ đây lớp đạo diễn mới tự do khai thác những góc nhìn về khối “hậu phương” cũng như di sản chiến tranh để lại, có thể kể đến Đường thư, Sống trong sợ hãi (2005), Áo lụa Hà Đông (2006), Đừng đốt (2009), Mùi cỏ cháy (2012)...
Vệt phim này có thể nói là “bước tiến” của dòng phim chiến tranh Việt Nam khi tính điện ảnh đã nhiều hơn bao giờ hết, được thực hiện trong lúc trang thiết bị vật chất đã đầy đủ hơn.
Đơn cử với Đường thư, đạo diễn Bùi Tuấn Dũng đã mang đến câu chuyện cá nhân về chàng trai trẻ ôm mộng vào khối đặc công nhưng lại được phân làm lính quân bưu. Anh cũng có sự so kè với khối quân khác khi bản thân không được coi trọng. Ở đây góc nhìn phản tư đã được “cởi trói”, khi các nhân vật có thể bộc bạch suy nghĩ rất riêng của mình.
Trong khi ở Sống trong sợ hãi, di sản bom mìn cùng hoàn cảnh của “phía bên kia” cũng được Bùi Thạc Chuyên làm rõ, qua đó cho thấy không còn sự phân biệt phe này phe kia mà là cái nhìn bao trùm và phổ quát hơn về cái khốc liệt của chiến tranh và bạo lực nói chung.
Đừng đốt của Trần Nhật Minh cũng là một tác phẩm như thế, không chỉ cho thấy một Đặng Thùy Trâm với vai trò là bác sĩ quân y mà còn là một thiếu nữ với nhiều tâm tư. Bộ phim này mở đường cho Người trở về (Đặng Thái Huyền, 2015), Truyền thuyết về Quán Tiên (Đinh Tuấn Vũ, 2019)... khai thác câu chuyện về người phụ nữ ít được biết đến khi trước đó các hình tượng chính vẫn là nam giới quả cảm.

Đừng đốt cho thấy hình tượng người phụ nữ cũng được quan tâm.
“Thời” của người trẻ
Từ 3 chặng trên có thể thấy dòng phim chiến tranh ngày nay đang bước vào giai đoạn mới mà đặc trưng dễ thấy nhất là yếu tố người trẻ trong khâu đóng góp cũng như tiếp nhận.
Khởi đầu cho cột mốc này không thể không nhắc đến Đào, Phở và Piano ra mắt vào năm 2023. Thoạt nhìn đây là tác phẩm mang đậm dấu ấn của giai đoạn thứ 2 khi được thực hiện bởi một đạo diễn “không trẻ”, do nhà nước đầu tư và chỉ được chiếu hạn chế. Tuy vậy phản ứng mà bộ phim này tạo ra vô cùng bất ngờ khi sau ba tháng đã thu về hơn 20 tỷ đồng – con số ấn tượng so với các phim sở hữu đặc điểm này.
Nguyên nhân thành công bắt đầu từ một TikToker khi clip ghi lại cảm nhận bất ngờ “viral” trên mạng xã hội. Với sức lan truyền mạnh mẽ cùng hiệu ứng FOMO (fear of missing out – sợ bỏ lỡ điều gì đó), góp phần giúp tác phẩm kéo khán giả đến rạp. Có thể nói thành công của bộ phim không chỉ nằm ở chất lượng mà là khía cạnh quảng bá, trong đó sự đóng góp của người trẻ là rất quan trọng.

Địa đạo – Mặt trời trong bóng tối thành công bởi cách khai thác câu chuyện cá nhân có tính kết nối.
Thừa thắng xông lên, vào tháng 4 vừa qua, một bộ phim chiến tranh cũng trở thành hiện tượng phòng vé là Địa đạo – Mặt trời trong bóng tối của Bùi Thạc Chuyên. Là đạo diễn sở hữu những góc nhìn khác biệt về dòng phim chiến tranh, nếu ở Sống trong sợ hãi anh chọn khai thác hình tượng người lính “phía bên kia”, thì với Địa đạo, vị đạo diễn đã rất thành công nhất khi chinh phục một câu chuyện phải nói là rất thách thức nếu muốn đưa lên màn ảnh rộng.
Có thể thấy chính cách xoáy sâu vào câu chuyện cá nhân của các nhân vật như Út Khờ, Ba Hương... đã giúp tác phẩm có tính điện ảnh, qua đó kể được câu chuyện riêng tư, chạm đến khán giả bởi ai cũng từng có một tuổi trẻ dám mơ, dám làm, dám sống, dù là chiến tranh hay trong thời bình.
Sự tham gia của dàn diễn viên trẻ như Hồ Thu Anh, Diễm Hằng Lamoon, Hoàng Minh Triết, Anh Tú Wilson... cũng là một điểm nhấn khác. Việc tạo cơ hội cho các diễn viên trẻ thử sức không chỉ giúp tận dụng sự nổi tiếng để kéo khán giả đến rạp, mà còn tạo ra một câu chuyện lịch sử có cách tiếp nhận cũng rất trẻ trung. Ở Mưa đỏ, sự tham gia của Hòa Minzy, Đỗ Nhật Hoàng, Phương Nam… cũng gây không ít chú ý.
Không dừng ở đó, nhạc phim cũng là một khâu rất được quan tâm. Trong khi Địa đạo được Hứa Kim Tuyền – nhạc sĩ hiện đang rất được yêu thích - đảm nhận, thì với Mưa đỏ, ca khúc Còn gì đẹp hơn đã và đang rất được yêu thích. Bài hát được Nguyễn Hùng sáng tác, tiếp tục lặp lại thành công của Phép màu trước đó khi giúp Đàn cá gỗ trở thành hiện tượng phòng vé dù cho đây chỉ là một phim ngắn tốt nghiệp.

Theo số liệu thống kê từ Box Office Vietnam, doanh thu Mưa đỏ chạm mốc 335 tỷ đồng trong tối 31.8. Riêng trong hôm 31.8, bộ phim này ghi nhận doanh số 44 tỷ đồng - thành tích cao nhất lịch sử phòng vé Việt.
Ekip bộ phim cho biết bên cạnh nhạc phim thì các khâu như hậu kỳ, quảng bá... cũng do tập thể những người rất trẻ đảm nhận, và thực tế đã chứng minh với sự thấu hiểu thị trường, thành công đã đến. Suốt thời gian qua, những cảnh phim so sánh bàn đàm phán Paris, hình tượng bà Nguyễn Thị Bình… giữa bản chuyển thể và thực tế của Mưa đỏ không ngừng gây chú ý, làm tăng thêm sự tò mò về tác phẩm này.
Từ những điều trên có thể thấy rằng dòng phim chiến tranh đang bước vào giai đoạn mới, nơi người trẻ bản lĩnh bước vào cuộc chơi và có đóng góp rất lớn trong rất nhiều khâu, cả trong và ngoài bộ phim. Sắp tới, các phim như Em bé Mỹ Lai (Hoàng Nam), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Dũng)... cũng được khởi động, kỳ vọng tiếp nối tiếng vang cho dòng chảy này khi đây đều là những gương mặt rất linh hoạt và nhạy cảm với cái mới.
Bài: Minh Anh - Ảnh: Tư liệu - Đoàn phim
Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/chuong-moi-cua-dong-phim-chien-tranh-49699.html