Chuyện chưa kể về người phụ nữ được mời dạy công chúa, cung tần nhà Nguyễn
Giữa chốn cung đình nghiêm cẩn, có một nữ sĩ dám 'phê' vua Minh Mạng mà vẫn được khen ngợi, một người phụ nữ tài sắc, khí phách và thanh tao.
Bà Huyện Thanh Quan, nữ sĩ tài hoa đất Thăng Long nổi tiếng đoan trang, học rộng, ứng đối thông tuệ. Cuộc đời và sự nghiệp của bà là một dấu son đặc biệt trong lịch sử văn hóa Việt Nam.

Tranh minh họa Bà Huyện Thanh Quan.
Bà huyện dám “phê” vua Minh Mạng mà vẫn được khen
Bà Huyện Thanh Quan, tên thật Nguyễn Thị Hinh, quê làng Nghi Tàm, Thăng Long (nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Cha bà là Nguyễn Lý, đỗ thủ khoa thi Hương năm 1783 dưới triều Lê Hiển Tông, nổi tiếng học rộng, nhân nghĩa. Từ nhỏ, bà đã được cha cho theo học Phạm Quý Thích, một danh sĩ lớn đất Bắc, nhờ đó thông thạo kinh, sử, lễ, nghi và đặc biệt sớm bộc lộ tài năng thơ phú.
Khi trưởng thành, bà kết duyên cùng Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng (Thanh Trì, Hà Nội), hiệu Ái Lan, đỗ cử nhân năm 1821, từng giữ chức tri huyện Thanh Quan (Thái Bình). Cái tên “Bà Huyện Thanh Quan” từ đó mà thành, vừa là tên gọi thân thuộc trong dân gian, vừa là danh hiệu văn chương lưu danh hậu thế.
Vẻ đẹp đoan trang, học thức uyên thâm cùng tài văn chương đã khiến danh tiếng bà vang tới kinh đô. Khi triều đình nhà Nguyễn cần nữ quan, vua Minh Mạng đã triệu bà vào cung, phong chức Cung Trung Giáo Tập, chuyên giảng dạy lễ nghi, văn chương cho các công chúa và cung tần.
Tài làm thơ Nôm của bà khiến ngay cả vua cũng khâm phục. Một lần nhà vua sai bà đề thơ lên bộ đồ trà vẽ sơn thủy đặt làm từ Trung Hoa, bà viết: “Như in thảo mộc trời Nam lại, Đem cả sơn hà đất Bắc sang”, hai câu thơ khiến vua Minh Mạng hết lời khen ngợi.
Trong triều còn lưu truyền giai thoại thú vị về sự thông minh và duyên ứng đối của bà. Khi vua Minh Mạng tặng một vị đại thần hai chữ “Phúc – Thọ”, quay sang hỏi ý kiến, bà ung dung đáp: “Phúc tối hậu, thọ tối trường.” Nhà vua thoạt đầu chưa hiểu, sau nhìn kỹ mới bật cười, chữ “Phúc” tròn trịa, chữ “Thọ” dài ngoẵng, quả đúng như lời bà! Cách nói hóm hỉnh mà tế nhị ấy cho thấy sự thông tuệ và phong nhã của một nữ sĩ đất Bắc giữa chốn cung đình nghiêm cẩn.
Một giai thoại khác kể rằng, năm 1822, khi vua Minh Mạng ra chiếu cấm phụ nữ Bắc Hà mặc váy, nhân dân phản đối bằng cách sáng tác bài ca dao châm biếm “Tháng sáu có chiếu vua ra…”. Dân gian đồn rằng trong phong trào phản ứng ấy, Bà Huyện Thanh Quan cũng bày tỏ sự bất bình kín đáo qua thơ và lời giảng, góp phần khiến sắc chiếu ấy sớm bị bỏ.
Sau khi chồng mất (1847), bà xin cáo quan, trở về quê dạy học, sống thanh đạm tại Nghi Tàm cho đến cuối đời. Dẫu rời xa hoàng cung, nhưng trong lòng người dân Thăng Long, Bà Huyện Thanh Quan vẫn mãi là hình ảnh người phụ nữ thanh tao, học vấn uyên thâm, vừa có phẩm cách của một nhà nho, vừa có hồn thơ của một thi nhân.
Nữ trí thức có lòng nghĩa khí, thương dân
Năm 1847, sau khi chồng là ông Lưu Nguyên Ôn qua đời, Bà Huyện Thanh Quan không muốn tiếp tục ở lại kinh đô Huế. Dù được vua Tự Đức nhiều lần khuyên giữ lại, bà vẫn một mực xin miễn chức để đưa các con hồi cư về Nghi Tàm, làng quê bên bờ Hồ Tây, nơi chôn nhau cắt rốn. Tại đây, bà mở lớp dạy học, sống thanh đạm nhưng an nhiên cho đến cuối đời.
Không chỉ là người tài thơ, Bà Huyện Thanh Quan còn là một trí thức nữ có lòng nghĩa khí, thương dân, hiểu đời. Ngọc phả làng Nghi Tàm ghi lại một câu chuyện cảm động: vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 23, dân làng phải chịu cảnh khốn đốn vì lệ tiến cống chim sâm cầm, một thứ đặc sản của Hồ Tây dùng để tiến vua từ thời Lê. Lệ cũ nhưng vẫn bị triều Nguyễn duy trì, khiến dân nghèo khổ cực, nhiều năm không bắt đủ chim, lý trưởng bị đánh trăm roi.
Thương dân làng chịu cảnh o ép, ông lý trưởng tìm đến nhờ Bà Huyện Thanh Quan, người từng làm nữ quan trong triều viết đơn gửi vua xin bỏ lệ. Cảm động trước tấm lòng của dân và nỗi thống khổ kéo dài qua bao đời, bà đã viết tấu sớ trình vua, lại nhờ một bà phi quen biết trong cung giúp chuyển lời. Lời tấu được vua Tự Đức chấp thuận. Làng Nghi Tàm từ đó được miễn hẳn lệ tiến cống sâm cầm.
Câu chuyện ấy không chỉ là giai thoại, mà còn là chứng tích cho nhân cách của một người phụ nữ xuất thân nơi cửa Khổng sân Trình, nhưng trái tim vẫn thuộc về nhân dân. Khi việc thành, dân làng mở tiệc ăn mừng suốt ba ngày, rồi họp bàn đồng lòng ghi công Bà Huyện Thanh Quan vào ngọc phả, như một vị ân nhân của quê hương.
Nhà thơ tài năng với nỗi niềm hoài cổ
Cuộc đời Bà Huyện Thanh Quan gắn liền với những biến thiên của lịch sử đất nước. Bà sinh vào buổi giao thời giữa cuối Lê và đầu Nguyễn – giai đoạn mà nền phong kiến đang chuyển mình, quyền lực dời đô từ Thăng Long vào Huế. Chính trong bối cảnh ấy, tâm hồn và thi tứ của bà thấm đẫm nỗi hoài cổ, thương nước thương dân, hoài niệm về một quá khứ vàng son đã xa.
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thường mang âm hưởng tự sự, mượn cảnh nói tình, mượn sông núi để gửi gắm nỗi niềm nhân thế. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, bà là người Thăng Long chính gốc, dù chưa từng sống dưới thời Lê, nhưng tâm thức hoài Lê vẫn hằn sâu trong cảm thức thi ca. Điều đó, thể hiện rõ trong một số tác phẩm của bà, như “Thăng Long Thành hoài cổ”, “Qua Đèo ngang”: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ), “Dừng chân đứng lại: trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta” (Qua Đèo Ngang).
Tuy số lượng để lại không nhiều, nhưng những tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan được đánh giá là dấu son của thơ Việt Nam Trung đại. PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, Phó Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam nhận định: “Hơi thơ của bà Huyện Thanh Quan là thơ Nôm nhưng khác biệt ở chỗ hướng về đời sống, hết sức bình dị nhưng sinh động, mượt mà và gần như không có điển tích, điển cố”.
Giáo sư Dương Quảng Hàm đã đánh giá về tài năng thi phú của bà: “Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tỏ tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện”.
Có thể nói, Bà Huyện Thanh Quan là một trong những hình mẫu hiếm hoi của người phụ nữ trí thức, có nhân cách lớn trong xã hội phong kiến. Dù sống trong thời đại mà phụ nữ ít có cơ hội bước ra khỏi khuôn khổ gia đình, bà vẫn khẳng định vị thế bằng học vấn, nhân cách và tài năng, vượt qua giới hạn của thời đại để sống đúng với phẩm giá của mình.











