Chuyện 'đau đầu' với chủ đầu tư các dự án trọng điểm
Trong số các mỏ cát đang khai thác, chỉ có 1 mỏ đang hoạt động, 1 mỏ đang làm thủ tục gia hạn, 2 mỏ hết hạn đang làm thủ tục đóng cửa mở, 1 mỏ đang tạm ngưng và 1 mỏ chưa hoạt động.
Mặc dù trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện đang có 84 Giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng còn hiệu lực, trong đó số lượng giấy phép do Bộ TN - MT (nay là Bộ NNMT) cấp là 12; số giấy phép do UBND tỉnh Đồng Nai cấp là 72. Trữ lượng đá xây dựng, tổng trữ lượng được phê duyệt lên tới hơn 577 triệu m3 và trữ lượng khai thác còn lại tính đến cuối năm ngoái là 412 triệu m3. Tổng trữ lượng cát xây dựng của các mỏ được phê duyệt là 6 triệu m3, trữ lượng khai thác còn lại tính đến thời điểm đầu năm nay là hơn 2,7 triệu m3.
Trong số các mỏ cát đang khai thác, chỉ có 1 mỏ đang hoạt động, 1 mỏ đang làm thủ tục gia hạn, 2 mỏ hết hạn đang làm thủ tục đóng cửa mở, 1 mỏ đang tạm ngưng và 1 mỏ chưa hoạt động. Nguồn vật liệu phục vụ san lấp tổng trữ lượng được phê duyệt cũng lên đến gần 921 nghìn m3, toàn bộ trữ lượng khai thác này còn nguyên cho đến đầu năm nay.

Thi công tuyến cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu.
Theo Nghị quyết Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ, địa phương đã cấp phép theo cơ chế đặc thù khai thác vật liệu san lấp tại 2 khu vực với trữ lượng lên tới gần 1,414 triệu m3 nguyên khai. Việc này đã góp phần bổ sung nguồn vật liệu san lấp phục vụ cho các công trình trọng điểm trên địa bàn.
Thực hiện Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024, UBND tỉnh Đồng Nai cũng đã cấp 6 Giấy phép khai thác khoáng sản nhóm IV làm vật liệu san lấp cho 6 nhà thầu thi công Dự án thành phần 1 và thành phần 2 cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu và Dự án thành phần 3 của tuyến Vành đai 3, đoạn qua tỉnh Đồng Nai.
Báo cáo với Bộ Xây dựng vào ngày 30/10 vừa qua, ông Nguyễn Văn Long, Phó Giám đốc BQL dự án 85 - chủ đầu tư Dự án thành phần 2 cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu cho biết, nhu cầu đất đắp của dự án thành phần này cần khoảng 3,2 triệu m3. UBND tỉnh Đồng Nai đã cấp phép 3 mỏ với tổng trữ lượng là 2,27 triệu m3. Quá trình thi công, các mỏ này không đáp ứng đủ nhu cầu về trữ lượng và công suất khai thác gây ảnh hưởng đến tiến độ dự án. Đã vậy mỏ đất đắp Phước Bình còn bị vướng về chủ thể khai thác khiến BQL dự án 85 phải phối hợp tháo gỡ.
Theo ông Long, tổng nhu cầu đá các loại của Dự án thành phần 2 khoảng 1,032 triệu m3, UBND tỉnh Đồng Nai đã phân khai tổng khối lượng tại các mỏ là 690,7 nghìn m3. Vì vậy dự án đã phải sử dụng khoảng 250 nghìn m3 tử các mỏ bên ngoài.
Dự án gặp khó khăn về nguồn cung đá do trong khu vực có nhiều dự án lớn khác cùng triển khai như tuyến Vành đai 3, sân bay Long Thành, Dự án thành phần 1 của tuyến cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu… đến nay thực tế Dự án thành phần 2 còn thiếu khoảng 138 nghìn m3 nên BQL dự án 85 đã phải tiếp tục làm việc với Sở NNMT Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh để tăng công suất khai thác cho năm nay và điều chỉnh phân khai tổng khối lượng đá bê tông nhựa cho một số mỏ.
Báo cáo với UBND tỉnh Đồng Nai vào ngày 31/10 vừa qua, ông Dương Văn Hiếu, Phó Giám đốc Sở Xây dựng Đồng Nai cho biết, riêng Dự án thành phần 1 cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu hiện còn thiếu tới 800 nghìn m3 đất đắp. Khối lượng thi công của dự án thành phần 1 mới đạt hơn 51%; Dự án đường Vành đai 3 đoạn qua địa bàn cũng mới đạt khối lượng tương tự nên lượng đá, cát xây dựng sẽ còn cần nhiều.
Để bảo đảm nguồn vật liệu cho các dự án trên khi mốc thời gian phải hoàn thành, thông xe chỉ còn vài chục ngày, trước đó ngày 24/10, UBND tỉnh Đồng Nai cũng đã giao Sở NNMT chủ trì, làm việc với các mỏ đá để tăng công suất khai thác, thời gian cung cấp cũng như khai thác, cung cấp vật liệu cho nhà thầu cả ngày thứ 7 và chủ nhật.
Thông tin về tình hình thực hiện Dự án xây dựng hạ tầng và cải tạo môi trường kênh Tham Lương, đại diện BQL dự án đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị (Ban Hạ tầng) TP Hồ Chí Minh cho biết, ngày 23/6 vừa qua, UBND tỉnh Đồng Nai đã cho phép bổ sung việc phân khai vật liệu phục vụ Dự án kênh Tham Lương với khối lượng 242 nghìn m3 đá các loại.
Tuy vậy, Ban Hạ tầng vẫn phải đề nghị UBND thành phố hỗ trợ đăng ký lịch làm việc với UBND tỉnh Đồng Nai cùng một số địa phương khác để tăng cường cung cấp nguồn đá phục vụ dự án này và các công trình trọng điểm do Ban Hạ tầng làm chủ đầu tư.
Bởi chỉ riêng Dự án cải tạo kênh Tham Lương đã cần tới 1,4 triệu m3 cát đắp nền đường cũng như một số hạng mục xử lý gia cố sau kè. Về đá xây dựng các loại, chỉ mình dự án này đã cần khoảng 755 nghìn m3. Trong khi đó, đến hết quý 3 vừa qua lượng cát, đá về dự án mới chỉ đạt 16% nhu cầu. Thực trạng này khiến dự án phải sử dụng cát nhập khẩu với giá cao và gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công.
Theo ông Lê Ngọc Hùng, Phó Giám đốc BQL dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông (Ban Giao thông) TP Hồ Chí Minh, để đảm bảo nguồn vật liệu phục vụ thi công, Dự án xây dựng đường Vành đai 3 đoạn qua TP Hồ Chí Minh đã được các địa phương ở khu vực miền Tây cấp phép tới 16 mỏ cát.
Các mỏ cát này cũng đã được nâng công suất khai thác để cung cấp cho dự án theo Nghị quyết ngày 15/8 của Chính phủ với tổng khối lượng lên tới 9,6 triệu m3; riêng năm 2025 này các mỏ sẽ khai thác tới 4,5 triệu m3 cát. Về đá xây dựng, năm nay tỉnh Đồng Nai và Bình Dương (cũ) đã phân bổ khối lượng khai thác đến 1,5 triệu m3 cho dự án.
Từ thực tế trên, để tránh gây khan hiếm vật liệu dẫn đến “đội” vốn đầu tư và công trình chậm tiến độ thì ngay khi phê duyệt đầu tư dự án xây dựng hạ tầng, các địa phương cần làm rõ số mỏ vật liệu cụ thể cung cấp cho từng dự án. Nhất là trước tình trạng các dự án trọng điểm trong khu vực đang được triển khai đồng loạt hiện nay.













