Chuyên đề: Động lực bứt phá trong kỷ nguyên vươn mình:Từ tinh thần Bạch Thái Bưởi đến doanh nhân thời đại mới
Chưa bao giờ trong lịch sử kinh tế Việt Nam, khu vực tư nhân lại được đặt vào vị thế trung tâm như hôm nay. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 4/5/2025), không chỉ bổ sung vài dòng về cải cách thủ tục, mà khẳng định dứt khoát: 'Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.' Ở cấp độ chính sách, đây là bước ngoặt tương đương khoảnh khắc Việt Nam tuyên bố Đổi mới năm 1986.

Nhà báo Lê Thọ Bình.
Từ Bạch Thái Bưởi đến thế hệ tỷ phú hôm nay, trong lịch sử đất nước, doanh nhân Việt luôn là lực lượng tiên phong mở đường. Nhưng để họ tiếp tục đóng góp cho khát vọng 2045, Việt Nam cần một “cú nhảy” mang tính bứt phá, tạo ra không gian thể chế mà doanh nghiệp được tin tưởng, bảo vệ và tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển.
Dòng chảy bền bỉ của tinh thần doanh nhân
Với Nghị quyết 68, Đảng chủ trương đề cao vai trò doanh nhân như đối tác chiến lược của Nhà nước, từ khâu hoạch định, triển khai cho đến giám sát chính sách. Thậm chí, lần đầu tiên trong các văn kiện Đảng, từ “doanh nhân yêu nước” được đặt ngang hàng với những lực lượng xây dựng đất nước khác, như nhà khoa học, trí thức, công nhân.
Thể chế, hiểu như tổng hòa luật lệ, cách hành xử công quyền và niềm tin thị trường, mới quyết định kinh tế tư nhân có hóa thành động cơ tăng trưởng hay không. Kinh nghiệm ba thập kỷ hội nhập cho thấy, lần nào doanh nghiệp tư nhân được “cởi trói”, lần ấy GDP Việt Nam lại bật lên một nấc thang.
Từ đầu thế kỷ XX, các nhà tư sản dân tộc khởi nguồn khát vọng “người Việt dùng hàng Việt”. Bạch Thái Bưởi chèo lái đoàn tàu Bình Chuẩn vượt sóng sông Hồng, cạnh tranh sòng phẳng với hãng tàu Pháp. Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà, Lương Văn Can không chỉ kinh doanh mà còn lập trường, mở báo, phổ cập tinh thần tự cường. Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, gia đình nhà tư sản Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ dốc hơn 5.000 lượng vàng cho Chính phủ lâm thời, minh chứng cho mối liên đới vận mệnh giữa doanh nhân với quốc gia.
Sau khi đất nước bước vào mô hình kế hoạch hóa, khu vực tư nhân bị thu hẹp, song “mạch ngầm do-anh nhân” vẫn lặng lẽ chảy, đợi cơ hội bùng phát. Thời điểm ấy đến vào năm 1986 với khẩu hiệu “cởi trói cho sản xuất”. Chỉ trong một thập kỷ, hàng loạt xí nghiệp tư nhân mọc lên, từ cơ khí, may mặc đến chế biến nông sản, thiết lập nền móng cho nền kinh tế thị trường.
Thể chế, hiểu như tổng hòa luật lệ, cách hành xử công quyền và niềm tin thị trường, mới quyết định kinh tế tư nhân có hóa thành động cơ tăng trưởng hay không. Kinh nghiệm ba thập kỷ hội nhập cho thấy, lần nào doanh nghiệp tư nhân được “cởi trói”, lần ấy GDP Việt Nam lại bật lên một nấc thang.
Bước vào thế kỷ XXI, lớp doanh nhân hiện đại trỗi dậy với tầm nhìn toàn cầu. Sáu tỷ phú đô la người Việt: Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Trần Đình Long, Trần Bá Dương, Hồ Hùng Anh, Nguyễn Đăng Quang, không chỉ xuất hiện trên bảng xếp hạng Forbes, mà còn góp 112.000 tỷ đồng tiền thuế riêng năm 2024, vượt đóng góp của vài “ông lớn” Nhà nước.
Sự bứt phá ấy phản chiếu ba chuyển dịch căn bản: (1) Từ khai thác sang sáng tạo giá trị: VinFast đem ô tô điện “Made in Vietnam” tiến vào Mỹ, EU; VietJet Air mở “bầu trời giá rẻ” tới 34 quốc gia, kéo theo kiều hối kỷ lục. (2) Từ thị trường nội địa sang chuỗi giá trị toàn cầu: Hòa Phát xuất khẩu thép cuộn cán nóng sang Mỹ và Châu Âu; Thaco gia công, lắp ráp thiết bị nông nghiệp cho Nhật Bản. (3) Từ mô hình gia tộc sang quản trị hiện đại: các tập đoàn niêm yết, áp dụng chuẩn mực ESG, bảo vệ môi trường và chia sẻ lợi ích với cộng đồng.
Nhờ đó, đóng góp của khu vực tư nhân đã chạm mốc 45 % GDP, tạo hơn 85 % việc làm mới mỗi năm, con số khiến bất cứ nền kinh tế mới nổi nào cũng thèm muốn. Quan trọng hơn cả số liệu, chính doanh nghiệp tư nhân đang trở thành hình mẫu của khát vọng vươn lên, từ “làm ăn nhỏ” sang “làm lớn”, từ “làm tốt cho mình” đến “làm có trách nhiệm với xã hội”.

Định vị chiến lược doanh nhân: then chốt cơ cấu chính sách
Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, nền kinh tế phải duy trì mức tăng năng suất lao động trên 6 %/năm, một ngưỡng gần gấp đôi tốc độ bình quân của thập kỷ vừa qua. Ngọn nguồn của bước nhảy vọt này nằm ở đổi mới sáng tạo và năng lực kiến tạo giá trị của khu vực kinh tế tư nhân. Kinh nghiệm quốc tế từ Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy: khi Nhà nước lo “dọn đường” thể chế và doanh nhân tập trung “bứt tốc” sáng tạo, thu nhập bình quân tăng nhanh và bền, còn khoảng cách thu nhập nội khối thu hẹp đáng kể.
Năm 1945, gia đình nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô hiến hơn 5.000 lượng vàng cho Chính phủ lâm thời mà không đòi hỏi đặc ân, vì tin vào vận mệnh quốc gia. Hôm nay, thế hệ doanh nhân tỷ đô cũng chỉ cần một điều kiện tiên quyết: thể chế minh bạch, đồng bộ và nhất quán để họ yên tâm dốc trí lực, tài lực trong cuộc đua toàn cầu.
Để thực thi được chiến lược đó, theo nhiều chuyên gia kinh tế thì, Việt Nam cần xây dựng được 3 trụ cột cấu trúc chính sách:
Một là niềm tin pháp lý ổn định: Mọi văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới đầu tư, kinh doanh phải được “đóng khung” bởi hai nguyên tắc; chắc chắn không hồi tố, để doanh nghiệp yên tâm hoạch định chiến lược dài hạn; không tùy tiện sửa đổi, hủy bỏ làm phát sinh rủi ro chính sách.
Hai là bảo đảm quyền tài sản: Thừa nhận quyền sử dụng đất là tài sản tài chính, có thể giao dịch, thế chấp và chuyển nhượng minh bạch; tòa án thương mại chuyên trách cần sớm được thành lập để bảo vệ kịp thời lợi ích cho nhà đầu tư.
Ba là tiếp cận nguồn lực bình đẳng: Đất đai, hạ tầng, tín dụng: Ngân hàng chính sách nên chuyển từ cho vay ưu tiên dự án công sang bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp đổi mới. Quản lý đất công phải công khai giá và quỹ đất, tạo thị trường thứ cấp giúp tư nhân chủ động mở rộng quy mô. Dữ liệu và nhân lực: Mở kho dữ liệu công (Open Data) cho doanh nghiệp tra cứu, phát triển sản phẩm; đồng thời cấp học bổng thuế (tax credit) cho doanh nghiệp đầu tư đào tạo nhân sự AI, chuyển đổi số.
Ngoài ra cũng cần tạo ra một không gian đổi mới và chấp nhận rủi ro như: Thí điểm sandbox: Cho phép doanh nghiệp fintech, năng lượng tái tạo, kinh tế số thử nghiệm mô hình mới trong khung pháp lý “vùng đệm” kéo dài 24–36 tháng. Fail fast - learn fast: Thiết lập Quỹ đồng đầu tư mạo hiểm công - tư, Nhà nước góp 30 % vốn, chấp nhận thua lỗ có kiểm soát để kích hoạt vòng đời ý tưởng - thất bại - cải tiến.
Bên cạnh đó cần thiết phải có hệ sinh thái chính sách bổ trợ như về Thuế và kế toán: Khấu trừ 150 % chi phí R&D; áp dụng chuẩn IFRS tự nguyện cho doanh nghiệp niêm yết để thu hút nhà đầu tư quốc tế. Hậu kiểm thay vì tiền kiểm: Thay 60 % điều kiện kinh doanh hiện hành bằng cơ chế tự công bố tiêu chuẩn, cơ quan nhà nước hậu kiểm định kỳ, xử phạt nghiêm gian lận.
Xây dựng Liên kết viện - trường - doanh nghiệp cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng: Giao các đại học trọng điểm mục tiêu 60 % đề tài khoa học có tài trợ doanh nghiệp vào năm 2030; chia sẻ 70 % lợi nhuận thương mại hóa sáng chế cho phía doanh nghiệp đặt hàng.
Định vị chiến lược: Doanh nhân là lực đỡ quốc gia trong kỷ nguyên đổi mới
Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, tăng trưởng kinh tế đơn thuần dựa vào mở rộng đầu tư công hoặc khai thác tài nguyên sẽ không còn hiệu quả. Điều kiện tiên quyết là phải nâng năng suất lao động lên mức trên 6% mỗi năm, thông qua đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ cao và phát triển mô hình kinh doanh hiện đại, những yếu tố chỉ có thể được thúc đẩy bởi khu vực kinh tế tư nhân năng động và sáng tạo.
Lịch sử phát triển của các nền kinh tế thành công như Hàn Quốc, Singapore hay Israel cho thấy rõ: không có quốc gia nào đạt tới thịnh vượng bền vững chỉ nhờ vào trợ cấp nhà nước. Thay vào đó, họ xây dựng được thể chế kinh tế nuôi dưỡng tinh thần doanh nhân, tạo hành lang pháp lý ổn định để những người dám nghĩ, dám làm có cơ hội cống hiến và phát triển.
Hiện Việt Nam có hơn một triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Nếu mỗi SME tạo thêm ba việc làm kỹ năng cao, nền kinh tế sẽ có thêm ba triệu lao động chất lượng, đóng góp thêm 3–4 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP tiềm năng. Thu nhập bình quân nhờ đó có thể vượt ngưỡng 10.000 USD/người trước năm 2035 – tức rút ngắn chặng đường lên thu nhập cao một thập kỷ so với lộ trình hiện tại.
Doanh nhân là lực lượng duy nhất biến ý tưởng thành sản phẩm, biến tài nguyên thành của cải và việc làm. Thay vì coi doanh nghiệp là “đối tượng điều tiết” hay “kho thu ngân sách”, Nhà nước cần xác lập họ là đối tác kiến tạo chính sách. Đối tác thì phải được đối thoại thường xuyên, ghi nhận tiếng nói, chia sẻ rủi ro, và quan trọng nhất: được pháp luật bảo vệ minh bạch.
Năm 1954, gia đình nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô hiến hơn 5.000 lượng vàng cho Chính phủ lâm thời mà không đòi hỏi đặc ân, vì tin vào vận mệnh quốc gia. Hôm nay, thế hệ doanh nhân tỷ đô cũng chỉ cần một điều kiện tiên quyết: thể chế minh bạch, đồng bộ và nhất quán để họ yên tâm dốc trí lực, tài lực trong cuộc đua toàn cầu.
Nghị quyết 68 mở cánh cửa. Phần còn lại phụ thuộc vào cách chúng ta đẩy cánh cửa ấy rộng hay hẹp, lâu hay chóng. Đặt doanh nhân vào ghế lái là cách duy nhất để nền kinh tế Việt Nam bứt phá, hiện thực hóa khát vọng hùng cường 2045 và ghi danh trong bản đồ phát triển thế kỷ XXI.
“Tôi nghĩ chúng ta đang đứng trước một cơ hội rất lớn dành cho doanh nghiệp tư nhân.
Định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay rất rõ ràng, rất khai phóng – tạo điều kiện để chúng ta thay đổi tư duy, thay đổi nhận thức về vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế.
Tôi thực sự cảm nhận được rằng, bình minh của một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc – đang tới.
Nhưng để làm được điều đó, phải nâng cao năng lực thể chế – để phù hợp với định hướng lớn của Đảng, đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ những rào cản còn vướng mắc.
Bình đẳng không chỉ là giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, mà còn là sự bình đẳng thực chất giữa doanh nghiệp và Nhà nước, giữa người dân và bộ máy công quyền.
Tuy nhiên, nói gì thì nói, nếu không có năng lực thực thi, nếu không có đạo đức công vụ, thì rất khó để hiện thực hóa những điều chúng ta đang kỳ vọng.”
(Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng – Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng)
“Nghị quyết 68 ra đời là một bước đột phá rất lớn về tư duy, về chính sách. Nó tạo ra một động lực, một khuôn khổ pháp lý – thậm chí là khẳng định tầm nhìn và quan điểm cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân.
Nghị quyết đã khẳng định rất rõ một quan điểm vô cùng quan trọng, đó là: bảo đảm khu vực kinh tế tư nhân được bình đẳng trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực – không chỉ là nguồn lực tài chính, mà cả cơ hội kinh doanh.
Nguồn lực ở đây bao gồm: vốn, đất đai, công nghệ, dữ liệu, và các nguồn lực hợp pháp khác.
Trong Nghị quyết 68 cũng đã nêu rõ sẽ xử lý nghiêm những hành vi hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền… gây ảnh hưởng đến các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp khác. Đồng thời, nghị quyết cũng đặt ra một loạt các cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh.
Tôi thấy rằng, khi chúng tôi làm việc với các doanh nghiệp thì mong muốn đầu tiên mà họ chia sẻ là: phải tháo gỡ thể chế. Quan trọng nhất là có được cơ hội kinh doanh và sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực. Đó là điều mà doanh nghiệp cần nhất.