Chuyển đổi năng lượng xanh cho tăng trưởng xanh, hiện thực hóa mục tiêu NetZero

Chuyển đổi năng lượng xanh là xu thế tất yếu và yêu cầu bắt buộc để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời hướng tới một tương lai phát triển bền vững, tăng trưởng xanh cho Việt Nam và hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050...

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Nhu cầu năng lượng tăng mỗi năm và theo dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới để đáp ứng nhu cầu cho tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Thế giới đang chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo nhằm hướng tới phát triển bền vững trong tương lai. Việt Nam có tiềm năng lớn về các nguồn năng lượng tái tạo như: thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối.

NĂNG LƯỢNG XANH VÀ CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG XANH

Năng lượng xanh, còn được gọi là năng lượng tái tạo, là loại năng lượng được tạo ra từ các nguồn tài nguyên tự nhiên không giới hạn hoặc tái tạo được trong quá trình ngắn so với thời gian mà nó được sử dụng.

Năng lượng xanh không chỉ giúp giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường so với các nguồn năng lượng truyền thống như than và dầu mỏ, mà còn giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên không tái tạo và giảm rủi ro của biến động giá năng lượng. Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra trên toàn cầu.

Một khái niệm khá phổ biến về năng lượng xanh là nguồn năng lượng không có chất thải hoặc có chất thải nhưng không gây ô nhiễm không khí và nguồn nước hoặc không ảnh hưởng tới môi trường sống của con người và hệ sinh thái. Các khái niệm năng lượng xanh còn được gọi với các tên khác như năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng mới, hay năng lượng bền vững...

Các nguồn năng lượng xanh bao gồm:

Năng lượng mặt trời: Sử dụng ánh sáng mặt trời để tạo ra điện năng thông qua các tấm pin mặt trời. Là nước nhiệt đới, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng cho điện mặt trời.

Theo một số nghiên cứu, tiềm năng ước khoảng 963.000 MW, trong đó mặt đất 837.400 MW, mặt nước 77.400 MW và mái nhà 48.200 MW. Khu vực Trung, Nam Bộ có thời gian nắng nhiều trong năm với cường độ bức xạ lớn, tiềm năng điện mặt trời rất lớn. Theo nghiên cứu của Tổ chức Phát triển Đức (GIZ), tiềm năng tổng công suất điện mặt trời vùng này có thể lên tới 136.275 MW, điện lượng ước tính 216,5 tỷ kWh/năm.

Tính đến hết năm 2023, tổng công suất điện mặt trời tại Việt Nam khoảng 16.600 MW, trong đó có hơn 9.000 MW điện mặt trời mái nhà, chiếm khoảng 20,5% trong tổng lượng điện của cả nước.

Năng lượng gió: Sử dụng sức gió để quay các cánh quạt của các đường cơ giới để tạo ra điện năng. Việt Nam đã lọt top 5 các nước có công suất điện gió mới được lắp đặt vào năm 2021, xếp ở vị trí thứ 3 về lắp đặt điện gió ngoài khơi và thứ 4 về lắp đặt trên bờ.

Năng lượng nước (thủy điện): Sử dụng nước chảy để quay turbine và tạo ra điện năng. Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới, lượng mưa trung bình hàng năm luôn ở mức cao, khoảng từ 1800- 2000 mm. Địa hình có có cả đồi núi, đồng bằng, với hệ thống sông ngòi dày đặc, phía Tây có đồi núi cao, phía Đông đường bở biển dài, hệ thống sông ngòi hơn 3.450 hệ thống. Điều kiện tự nhiên thuận lợi tạo ra tiềm năng cho phát triển ngành thủy điện. Theo tính toán, với việc tận dụng lợi thế tự nhiên, tổng công suất thủy điện của Việt Nam sẽ đạt 35.000 MW.

Năng lượng địa nhiệt: Sử dụng nhiệt độ từ lòng đất để tạo ra điện năng. Địa nhiệt, nguồn năng lượng tái tạo khai thác nhiệt lượng từ lòng đất, có tiềm năng lớn trong việc đáp ứng nhu cầu điện toàn cầu đang ngày một tăng. Hiện tại, công suất lắp đặt của nguồn năng lượng này chỉ đạt 15GW, nhưng theo báo cáo từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (AIE), con số này có thể đạt 800GW vào năm 2050.

Năng lượng sinh khối: Sử dụng các nguồn năng lượng từ vật liệu hữu cơ như gỗ, bã mía, hoặc rác thải để tạo ra năng lượng. Sử dụng sinh khối (biomass) để sản xuất điện năng là dạng năng lượng tái tạo và có trữ lượng lớn nên được nhiều nước quan tâm đầu tư. Trên quy mô toàn cầu, sinh khối là nguồn năng lượng lớn thứ tư, chiếm khoảng 14- 15% tổng năng lượng tiêu thụ.

Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam là một nước nông nghiệp nên có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng sinh khối. Ước tính, mỗi năm Việt Nam có hơn 160 triệu tấn sinh khối từ ngành trồng trọt, trong đó có hơn 40 triệu tấn rơm ra, hơn 10 triệu tấn bã mía, gần 20 triệu tấn trấu…

Năng lượng biển: Sử dụng sức mạnh của sóng biển hoặc nước biển để tạo ra điện năng. Trên thế giới có nhiều quốc gia đã đưa vào ứng dụng thực tế các trạm phát điện bằng năng lượng sóng biển cung cấp cho các khu dân cư, đặc biệt là các hải đảo xa bờ với công suất phổ biến từ 50 kW, 100 kW, 300 đến 500 kW. Hiện nay đã có trên 30 quốc gia đầu tư nghiên cứ công nghệ khai thác nguồn năng lượng này.

Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo, tổng công suất năng lượng sóng thế giới khai thác được mỗi năm là 212 TWh/ năm, chiếm gần 1% tổng giá trị toàn cầu và 90% nhu cầu tiêu thụ điện năng của Việt Nam. Với hơn 3000 km bờ biển, Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc khai thác năng lượng sóng biển.

Năng lượng hydrogen: theo Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 7/2/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng hydrogen của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam phấn đấu công suất sản xuất hydrogen từ quá trình sử dụng năng lượng tái tạo và các quá trình khác có thu giữ carbon đạt khoảng 100- 500 nghìn tấn/năm vào năm 2030, và tăng lên 10- 20 triệu tấn vào năm 2050. Đây là nguồn năng lượng xanh, sạch, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát thải ròng bằng "0" của đất nước.

Năng lượng điện hạt nhân: Điện hạt nhân là nguồn điện nền, xanh và bền vững. Điện hạt nhân ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm lựa chọn và tiếp tục phát triển. Năng lượng hạt nhân có thể đóng vai trò hỗ trợ quan trọng cho năng lượng tái tạo trong dài hạn trong các kịch bản giảm phát thải cao.

Ngày 25/11/2024, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thống nhất chủ trương tái khởi động Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

Tại phiên bế mạc chiều 30/11/2024, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết kỳ họp thứ 8,trong đó có nội dung đồng ý tiếp tục chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

Trong bối cảnh hiện nay, tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận không chỉ là lời giải cho bài toán an ninh năng lượng quốc gia mà còn góp phần vào quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh bền vững.

Có thể thấy, hiện nay, thủy điện đang giữ thị phần nhiều nhất trong các nguồn năng lượng tái tạo. Tiếp đến là gió, sinh khối; năng lượng mặt trời, khí sinh học và năng lượng từ rác thải đang phát triển. Còn năng lượng địa nhiệt và năng lượng thủy triều đang ở bước đầu phát triển.

XU HƯỚNG CHUYỂN DỊCH NĂNG LƯỢNG XANH VÀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA VIỆT NAM

Năng lượng xanh có vai trò quan trọng trong việc giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường, đồng thời giúp đảm bảo an ninh năng lượng và sự bền vững của nguồn cung năng lượng trong tương lai. Với tiềm năng lớn về điện mặt trời, đường bờ biển dài, tài nguyên điện gió ngoài khơi và điện gió đất liền… theo các chuyên gia Việt Nam có nguồn tài nguyên tuyệt vời để phát triển, chuyển đổi năng lượng xanh.

Theo báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam: Đường đến phát thải ròng bằng 0 năm 2024, Việt Nam đã trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và đang nổi lên là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Xu hướng tăng trưởng dự kiến sẽ vẫn được tiếp tục, thúc đẩy nhu cầu năng lượng. Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, mở rộng sản xuất…dẫn đến nhu cầu năng lượng liên tục tăng cao.

Không những thế, Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do biến đổi khí hậu. Theo tính toán sơ bộ của Ngân hàng Thế giới vào năm 2022, nền kinh tế Việt Nam chịu thiệt hại khoảng 10 tỷ USD, tương đương 3,2% GDP hàng năm do tác động của biến đổi khí hậu.

Nhận thức được khả năng dễ bị tổn thương của nền kinh tế và dân số, Việt Nam đang tích cực giải quyết các mối lo ngại về biến đổi khí hậu trong bối cảnh chính sách, tập trung vào các hoạt động sử dụng năng lượng bền vững và thích ứng.

Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch”.

Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu COP26 được tổ chức tại Glasgow (Vương quốc Anh) vào tháng 11/2021, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Cam kết này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thực hiện các mục tiêu chuyển dịch từ nguồn năng lượng hóa thạch truyền thống sang các nguồn năng lượng xanh, sạch, giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu.

Theo đó, ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050 (Chiến lược tăng trưởng xanh). Chiến lược tăng trưởng xanh tập trung vào khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng xanh.

Cấu trúc khung hành động về khí hậu của Việt Nam được nêu rõ trong Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu đến năm 2050 (2022), đặt mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050.

Mới đây nhất, tại Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021– 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch Điện 8), Chính phủ Việt Nam cũng đã nhấn mạnh đến việc ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo nhằm đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi năng lượng công bằng.

Bên cạnh đó, vào tháng 12 năm 2022, Việt Nam đã tham gia Thỏa thuận Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). JETP dự kiến cung cấp 15,5 tỷ USD hỗ trợ cho giai đoạn đến năm 2026-2028, bởi một nhóm các nước tài trợ để giúp Việt Nam đạt được cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050.

Các nội dung chính của JETP bao gồm các mục tiêu đến năm 2030 như sau: đỉnh phát thải của ngành điện đạt 170 triệu tấn CO2eq, sản lượng NLTT chiếm tỷ trọng 47% và công suất đỉnh của các nhà máy điện than là 30,2 GW.

Dựa trên Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu, Việt Nam đã lồng ghép quá trình chuyển đổi bền vững vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia VIII (QHĐ8) thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, qua đó đặt ra các mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo và cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng để hỗ trợ đất nước đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Đáng chú ý là không có kế hoạch đầu tư nhà máy nhiệt điện than mới nào sau năm 2030 và việc giảm dần các nhà máy điện than sẽ diễn ra sau năm 2035.

THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI NĂNG LƯỢNG XANH

Năng lượng sạch đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng thiếu điện, bảo đảm an ninh năng lượng, do đó, việc phát triển năng lượng sạch là một trong những ưu tiên hàng đầu trong mục tiêu cấp bách hành động chống biến đổi khí hậu của các nước.

Theo báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam: Đường đến phát thải ròng bằng 0 năm, từ năm 2020 đến năm 2050, nhu cầu năng lượng trung bình của ngành công nghiệp sẽ tăng khoảng từ 4-7 lần tùy theo kịch bản, trong đó kịch bản GG có mức tăng trưởng nhu cầu năng lượng thấp hơn.

Trong các ngành dân dụng và dịch vụ, nhu cầu năng lượng được dự báo sẽ tăng lên 150% vào năm 2050 và đóng góp khoảng 18%-24% tổng nhu cầu điện của cả nước.

Theo dự báo, chậm nhất vào năm 2040, tất cả các dây chuyền sản xuất công nghiệp hiện có sẽ được thay thế bằng các quá trình và công nghệ mới hiệu quả hơn. Do đó, sử dụng năng lượng hiệu quả là giải pháp mang lại hiệu quả về mặt chi phí trong các ngành công nghiệp, dân dụng và dịch vụ.

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia (Nghị quyết số 55-NQ/TW) đặt mục tiêu tỷ trọng năng lượng tái tạo trong TPES: 15-20% vào năm 2030; 25-30% vào năm 2045. Mục tiêu giảm phát thải, trong toàn bộ lĩnh vực năng lượng: 15% vào năm 2030, 20% vào năm 2045.

Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu (2022) đặt mục tiêu phát thải của toàn ngành năng lượng: 457 triệu tấn CO2eq (2030) và 101 triệu tấn CO2eq (2050, bao gồm 20.8 triệu tấn CO2eq từ giao thông vận tải); quá trình công nghiệp: 89 triệu tấn CO2eq (2030) và 20 triệu tấn CO2eq (2050); nông nghiệp: 64 triệu tấn CO2eq (2030) và 56 triệu tấn CO2eq (2050); chất thải: 18.2 triệu tấn CO2eq (2030) và 7.8 triệu tấn CO2eq (2050); LULUCF: -95 triệu tấn CO2eq (2030) và -185 triệu tấn CO2eq (2050). Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản lượng điện: ít nhất 33% vào năm 2030 và 55% vào năm 2050.

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia VIII (2023) đặt mục tiêu tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản lượng điện: 31-39% vào năm 2030 (lên tới 47% nếu thực hiện cam kết JETP) và 67,5-71,5% vào năm 2050.

Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2023, tầm nhìn đến năm 2050 (năm 2023) chỉ rõ mục tiêu phát thải của toàn ngành năng lượng: 399-449 triệu tấn CO2eq vào năm 2030 và 101 triệu tấn CO2eq vào năm 2050.

Chiến lược phát triển năng lượng hydrogen đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (năm 2024) đặt mục tiêu sản xuất hydrogen: 100.000-500.000 tấn/năm vào năm 2030 và 10-20 triệu tấn/năm vào năm 2050.

Chiến lược Giao thông xanh (Quyết định 876/QĐ-TTg năm 2022) đặt mục tiêu tăng tỷ lệ điện và năng lượng xanh của các phương thức vận tải, với mục tiêu bắt đầu từ năm 2025.

Thỏa thuận Hợp tác đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (2022): Khí thải, ngành điện là 170 triệu tấn CO2eq (2030). Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản lượng điện: 47% (2030); công suất điện than: 30,2 GW (2030)…

KẾ HOẠCH THỰC HIỆN TUYÊN BỐ VỀ CHUYỂN ĐỔI ĐIỆN THAN SANG NĂNG LƯỢNG SẠCH

Thủ tướng Chính phủ mới đây đã ký Quyết định số 266/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Kế hoạch đặt mục tiêu chủ động tham gia xu thế toàn cầu phát triển carbon thấp; huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển điện lực; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ đốt kèm nhiên liệu sạch để giảm dần phát thải trong các nhà máy nhiệt điện than; đưa ra lộ trình dừng hoạt động các nhà máy nhiệt điện than đã hết đời sống kinh tế, công nghệ cũ.

Đẩy mạnh khai thác và sử dụng tối đa các nguồn năng lượng tái tạo cho sản xuất điện, bảo đảm cung cấp đủ điện, ổn định, chất lượng ngày càng cao với giá điện hợp lý cho phát triển kinh tế xã hội, đóng góp vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, giải pháp toàn diện ứng phó với biến đổi khí hậu và chuyển dịch năng lượng nhằm thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Đáng chú ý, kế hoạch ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện.

Mục tiêu cụ thể giai đoạn đến năm 2030, nghiên cứu thí điểm lắp đặt hệ thống thu gửi carbon cho nhà máy nhiệt điện than sử dụng công nghệ cũ, hiệu suất thấp; xem xét dừng hoạt động khoảng 540 MW (nhà máy nhiệt điện Phả Lại, công suất 440 MW và nhà máy nhiệt điện Ninh Bình, công suất 100 MW) nếu các nhà máy điện than đã hết đời sống kinh tế, công nghệ cũ, hiệu suất thấp không giải quyết cải thiện được vấn đề hiệu suất và phát thải.

Nghiên cứu, thí điểm áp dụng công nghệ đốt kèm nhiên liệu sinh khối, amoniac tại các nhà máy nhiệt điện than để giảm phát thải C02. Khuyến khích các nhà máy điện than đốt kèm và chuyển dần sang sử dụng nhiên liệu sinh khối, amoniac.

Ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện; tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo (gồm cả thủy điện) đạt khoảng 29,2- 37,7%.

Phấn đấu hoàn thành đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong khoảng 5 năm, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển và bảo vệ môi trường…

Tăng trưởng kinh tế xanh là xu hướng mới trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trước diễn biến của tình hình biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Theo các chuyên gia việc nghiên cứu và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo mới như: gió, mặt trời, điện địa nhiệt hay năng lượng sinh học là nhu cầu thiết yếu để các quốc gia phát triển nền kinh tế ít carbon hay nền kinh tế xanh.

Mới đây Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2025/NĐ-CP ngày 03/3/2025 quy định chi tiết một số điều của Luật Điện Lực về phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới.

Theo đó, các dự án điện năng lượng mới được sản xuất từ 100% hydrogen xanh hoặc 100% amoniac xanh hoặc 100% hỗn hợp của hydrogen xanh và amoniac xanh; dự án cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia; Dự án đầu tiên cho từng loại hình điện năng lượng mới… được hưởng các cơ chế ưu đãi hỗ trợ phát triển.

Hoa Đăng

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/chuyen-doi-nang-luong-xanh-cho-tang-truong-xanh-hien-thuc-hoa-muc-tieu-netzero.htm