Chuyển đổi số đảm bảo an toàn hồ, đập trước diễn biến bất thường của thời tiết
Các chuyên gia cảnh báo, sự bất thường của thời tiết, bão lũ dồn dập, không gian thoát lũ bị thu hẹp khiến việc vận hành hồ chứa ngày càng khó khăn. Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn.
Tỉ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn hồ đập còn thấp
Chiều 21/11, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” nhằm triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW. Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi – giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên, sự bất thường của thời tiết, bão dồn dập, không gian thoát lũ bị thu hẹp khiến việc vận hành hồ chứa ngày càng khó khăn.

Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
"Tỉ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn hồ đập vẫn rất thấp, chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc", ông An cho biết. Đáng chú ý, theo ông An, Bộ NN&MT đã xây dựng trang thông tin điện tử http://thuyloivietnam.vn từ năm 2016. Trong đó, hầu hết các hồ chứa thủy lợi được lưu trữ trên phần mềm nhưng chỉ có khoảng 900 hồ có thông số kỹ thuật tương đối đầy đủ, các hồ chứa còn lại chỉ có tên hồ, dung tích và vị trí, thiếu nhiều thông tin; chưa có các thông số kỹ thuật của 592 đập dâng.
Hiện nay, mới có 3 tỉnh trước khi sáp nhập (Quảng Nam, Bình Định, Hà Tĩnh) xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu về phòng chống thiên tai có tích hợp module quản lý hồ chứa nước (thông số kỹ thuật, vị trí, thông tin vận hành, mực nước, lưu lượng khi xả lũ).
Tuy nhiên, các phần mềm này cũng chưa có kết nối, liên kết được với cơ sở dữ liệu của bộ, chưa cập nhật với tình hình an toàn hạ du. Hầu hết các tỉnh còn lại chưa xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu, công tác lưu trữ dữ liệu hồ chứa thực hiện bằng thủ công.
Để giải quyết những bất cập trên, ông Phan Tiến An cho rằng, cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. các địa phương có thể sử dụng phần mềm riêng nhưng bắt buộc phải kết nối thông qua API chuẩn để bảo đảm đồng bộ và liên thông.
Cùng với đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ phân tích dữ liệu. “Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ được áp dụng rộng rãi, việc vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt”, ông An nhấn mạnh.
Cải thiện chất lượng dự báo để chủ động ứng phó thiên tai
Tham luận tại diễn đàn, TS Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), nhấn mạnh, bối cảnh vận hành ngày càng phức tạp khi cả nước có khoảng 6.800 hồ chứa, nhưng chỉ 300 hồ chiếm tới 80% dung tích điều tiết và mới khoảng 200 hồ có cửa van chủ động. Trong khi đó, mưa lũ cực đoan giai đoạn 2024-2025 tiếp tục đặt ra sức ép lớn, buộc ngành thủy lợi phải cải thiện năng lực dự báo, giám sát và điều hành.
Tuy nhiên, chất lượng dự báo vẫn phụ thuộc lớn vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm của chuyên gia, khiến sai số về đỉnh lũ và thời gian lũ còn xảy ra ở một số trận cụ thể. Các mô hình hiện hành cũng được đánh giá là đã cũ, cần nâng cấp để bắt kịp tốc độ biến đổi khí hậu và yêu cầu vận hành ngày càng khắt khe.

TS Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi) trình bày tại diễn đàn.
Để khắc phục, ông Mạnh đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương. Ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia, mạng lưới đo mưa tự động và các nền tảng thời tiết. Việc này giúp đảm bảo tất cả đơn vị vận hành đều có cùng một nguồn dữ liệu đầu vào, hạn chế sai số khi tính toán.
Cùng với đó, ngành cần đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích nhanh dữ liệu mưa, dòng chảy và hỗ trợ dự báo. Ông Mạnh nhấn mạnh, yếu tố quyết định vẫn là con người. Đội ngũ chuyên gia phải được duy trì trực vận hành mô hình thường xuyên, kể cả trong thời điểm không có lũ, nhằm liên tục kiểm tra, hiệu chỉnh dữ liệu và đảm bảo hệ thống luôn trong trạng thái sẵn sàng. Chỉ khi đó chất lượng dự báo mới được cải thiện và việc ứng phó với thiên tai mới thực sự chủ động.
Còn theo PGS.TS Hoàng Thái Đại, đại diện Hội Thủy lợi Việt Nam trăn trở, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trước đây bị phân tán giữa nhiều cơ quan, dẫn đến chồng chéo và thiếu thống nhất. Việc sáp nhập và kiện toàn mô hình quản lý hiện nay, nhất là khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã được hợp nhất, là tín hiệu rất tích cực, vì đây là điều kiện để thống nhất từ chính sách, cơ sở dữ liệu đến hệ thống hạ tầng quan trắc.
Ông nhấn mạnh, công nghệ hiện nay rất phát triển, phần mềm tốt, thiết bị hiện đại, nhưng dữ liệu vẫn là “tài sản cốt lõi” và đang là điểm yếu nhất. Dữ liệu quan trắc, đặc biệt là dữ liệu từ mạng quan trắc Khí tượng thủy văn quốc gia và mạng trạm của các công ty thủy lợi, vẫn còn phân tán, chưa được chuẩn hóa hoặc liên thông.
PGS.TS Hoàng Thái Đại cho rằng, dù thiết bị hay phần mềm tiên tiến đến đâu thì vai trò của quản lý nhà nước vẫn là yếu tố quyết định. Nhà nước phải đứng ra điều phối, thống nhất quản lý tài nguyên nước và hệ thống hồ đập từ Trung ương đến địa phương; ban hành các quy chuẩn, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật; đồng thời tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ đủ năng lực vận hành công nghệ mới. Đào tạo nhân lực chất lượng cao không chỉ dành cho cơ quan quản lý mà còn cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi và các đơn vị vận hành ở địa phương.












