Chuyển đổi số: 'Tấm khiên' chống thiên tai

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai. Từ bão, lũ, sạt lở cho đến hạn hán, những thảm họa tự nhiên đòi hỏi một phương thức quản trị mới - nơi công nghệ và khoa học cùng phát huy vai trò chủ đạo trong bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.

Thiên tai không còn là hiện tượng bất thường, mà là thực tế thường trực. Mỗi năm, Việt Nam ghi nhận hàng trăm trận mưa lớn, trên dưới mười cơn bão và nhiều vụ sạt lở nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, môi trường. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số trong quản trị thiên tai không chỉ là một xu thế, mà là yêu cầu cấp bách, là “tấm khiên số” giúp đất nước chủ động phòng ngừa, ứng phó và phục hồi hiệu quả.

Ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia cho biết: Ở góc độ khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực này dựa trên ba trụ cột chính. Toàn bộ thông tin khí tượng, thủy văn, hải văn được thu thập từ mạng lưới cảm biến IoT, trạm quan trắc tự động, radar thời tiết, vệ tinh, và hệ thống camera giám sát mưa lũ. Dữ liệu này được truyền theo thời gian thực về các trung tâm xử lý quốc gia và khu vực, tạo nên “bức tranh số” về diễn biến mưa, bão, lũ, sạt lở đất trên phạm vi toàn quốc. Hai là, dựa trên nền tảng điện toán đám mây, Big Data và trí tuệ nhân tạo (AI), các mô hình dự báo số trị được tối ưu liên tục, có thể giúp mô phỏng hàng trăm kịch bản mưa – lũ khác nhau. Các thuật toán học máy được ứng dụng để hiệu chỉnh đầu ra của mô hình toàn cầu và khu vực, từ đó tăng độ chính xác của dự báo mưa, lũ, và cảnh báo sớm lũ quét, sạt lở đất. Ba là, hệ thống thông tin địa lý (GIS) và bản đồ rủi ro thời gian thực cho phép các nhà quản lý nhanh chóng đánh giá nguy cơ, khoanh vùng ảnh hưởng, đưa ra phương án ứng phó kịp thời. Các nền tảng cảnh báo đa kênh – bao gồm SMS, ứng dụng di động, bản đồ tương tác và truyền hình – giúp thông tin đến được tận người dân ở các địa phương

Khi ba tầng công nghệ này được tích hợp, mỗi thông tin thời tiết, mỗi dòng dữ liệu từ cảm biến đều trở thành cơ sở để cảnh báo sớm, chỉ đạo nhanh, giảm thiểu thiệt hại tối đa.

Người dân di chuyển bằng thuyền trên các tuyến đường chính ở trung tâm thành phố Huế. Ảnh: TTXVN

Người dân di chuyển bằng thuyền trên các tuyến đường chính ở trung tâm thành phố Huế. Ảnh: TTXVN

Trong vài năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng về hệ thống giám sát thiên tai quốc gia, mạng lưới quan trắc của Cục Khí tượng Thủy văn, cùng các nền tảng bản đồ số của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giúp tích hợp dữ liệu liên ngành, chia sẻ thông tin kịp thời giữa Trung ương và địa phương.

Công nghệ số còn phát huy hiệu quả ở khâu cảnh báo đến người dân. Nhiều địa phương đã triển khai ứng dụng di động, tin nhắn cảnh báo, bản đồ số về vùng ngập, sạt lở. Các ứng dụng như ViRain, hệ thống cảnh báo sớm lũ quét, hay kênh thông tin của Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai đã giúp người dân chủ động trước rủi ro.

Tại Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP Huế và một số tỉnh, thành phố khác, các trung tâm điều hành thông minh (IOC) đang kết nối dữ liệu từ cảm biến, camera, bản đồ số để hỗ trợ lãnh đạo địa phương ra quyết định phòng, chống thiên tai.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy không ít hạn chế. Dữ liệu về thiên tai vẫn phân tán, thiếu chuẩn hóa, khiến việc chia sẻ và khai thác gặp khó khăn. Nhiều địa phương chưa có hệ thống giám sát đủ mạnh, thiếu nhân lực vận hành công nghệ. Khoảng cách số giữa miền núi và đồng bằng khiến việc tiếp nhận cảnh báo không đồng đều.

Một số mô hình dự báo, dù hiện đại, nhưng chưa được tích hợp vào quy trình chỉ huy thực tế, dẫn đến “đứt gãy” giữa phân tích và hành động. Nhiều nơi vẫn ứng phó thiên tai theo phương pháp truyền thống, thiếu công cụ số hỗ trợ ra quyết định nhanh.

Để chuyển đổi số thực chất, cần đồng thời triển khai cả khoa học dữ liệu, công nghệ và quản trị. Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu thiên tai quốc gia thống nhất, liên thông giữa các ngành: Khí tượng, thủy lợi, giao thông, quốc phòng, y tế. Dữ liệu phải được tiêu chuẩn hóa, cập nhật thời gian thực và sẵn sàng chia sẻ.

Thứ hai, phát triển mạng lưới cảm biến thông minh và ảnh vệ tinh tại các vùng rủi ro cao; ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong phân tích dòng chảy, cảnh báo lũ quét, dự báo mưa cực đoan.

Thứ ba, thiết lập nền tảng cảnh báo đa kênh (SMS, app, truyền thanh, mạng xã hội), đảm bảo mọi tầng lớp nhân dân đều tiếp cận thông tin kịp thời, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.

Thứ tư, đào tạo đội ngũ cán bộ số trong lĩnh vực thiên tai, giúp họ làm chủ công cụ, phân tích và vận hành hệ thống. Cùng với đó, hoàn thiện hành lang pháp lý và quy trình ứng phó số hóa, bảo đảm thông tin được xử lý thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.

Quản trị thiên tai bằng công nghệ số không chỉ giúp nâng cao năng lực dự báo, mà còn hình thành một hệ thống phản ứng nhanh, chính xác và nhân văn. Khi dữ liệu được chia sẻ, công nghệ vận hành thông suốt và người dân được trang bị thông tin sớm, mỗi cộng đồng sẽ trở thành “pháo đài số” vững chắc trước thiên tai.

Chuyển đổi số trong quản trị thiên tai vì thế không chỉ là câu chuyện kỹ thuật, mà là cam kết bảo vệ sự sống và phát triển bền vững. Đây chính là trách nhiệm của Nhà nước, của từng địa phương và cũng là nhiệm vụ khoa học - công nghệ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong thời đại số.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/chuyen-doi-so-tam-khien-chong-thien-tai-994875