Chuyên gia Mỹ: Cần ngăn chặn hành vi của kẻ bắt nạt trên Biển Đông
Chuyên gia Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) cho rằng cần hành động nhiều hơn để ngăn hành vi bắt nạt của Trung Quốc trên Biển Đông.
Gregory Poling và Murry Hiebert, hai chuyên gia thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) tại Mỹ ngày 29/8 có bài bình luận trên tờ Wall Street Journal về các hành vi bắt nạt của Trung Quốc trên Biển Đông. Các chuyên gia này cho rằng Trung Quốc phải trả giá cho việc cho phép các lực lượng hải cảnh và ủy nhiệm cản trở tự do trên biển.
Bộ Ngoại giao Mỹ tuần trước có phát ngôn mạnh mẽ về hành vi quấy rối của Trung Quốc đối với các hoạt động dầu khí của Malaysia và Việt Nam ở Biển Đông. Phát ngôn viên Morgan Ortagus chỉ trích việc Bắc Kinh tiếp tục can thiệp vào các hoạt động dầu khí lâu đời của Việt Nam, đặt ra câu hỏi nghiêm túc về cam kết của Trung Quốc để giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển.
Dù "phát súng ngoại giao" đã được bắn ra, nhưng Mỹ và các đối tác cần phải làm nhiều hơn để Trung Quốc thấy cần kiềm chế trong việc để các tàu hải cảnh và dân quân di chuyển "tự do", gây ra va chạm nguy hiểm, các chuyên gia Mỹ nhận định.
Tình hình ngoài khơi bờ biển Việt Nam thu hút được nhiều sự chú ý, tuy nhiên các hành vi bắt nạt của Trung Quốc đã bắt đầu từ tháng 5 ở phía bên kia Biển Đông (gần Malaysia).
Ngày 21/5, hai tàu thương mại hợp đồng với một công ty dầu khí của Anh và Hà Lan sau khi hoàn thành chuyến đi định kỳ tới một giàn khoan ở ngoài khơi bờ biển Malaysia trên Biển Đông thì gặp một tàu hải cảnh lớn của Trung Quốc mang số hiệu Haijing 35111, di chuyển vòng quanh và tiến gần hai tàu trong phạm vi khoảng 80 mét.
Theo các chuyên gia, động thái của tàu Haijing 35111 nhằm quấy rối và ngăn cản các hoạt động của công ty dầu khí.
Ngày 16/6, tầu Haijing 35111 đã đi vào vùng biển của Việt Nam, nơi công ty năng lượng của Nga Rosneft hợp đồng với 1 giàn khoan của Nhật nhằm khoan 1 giếng ngoài khơi mới. Tàu hải cảnh Haijing 35111 và một số tàu tương tự bắt đầu quấy rối giàn khoan cũng như các tầu phục vụ giàn khoan này và các tàu hải cảnh Trung Quốc vẫn đang tiếp tục ở đó. Các tàu Trung Quốc đã sử dụng các hành động mạo hiểm tương tự như ở ngoài khơi Malaysia, nhằm tạo ra mối đe dọa va chạm để gây sức ép buộc Việt Nam và Rosneft dừng các hoạt động khoan.
Khí tự nhiên từ các hoạt động khoan ngoài khơi tại khu vực này cung cấp tới 10% nhu cầu năng lượng của Việt Nam. Việc giữ cho Rosneft tiếp tục hoạt động dưới sức ép của Trung Quốc rất quan trọng đối với ngành công nghiệp năng lượng ngoài khơi của Việt Nam.
Bài liên quan
Anh, Pháp, Đức đồng loạt bày tỏ quan ngại về tình hình Biển Đông
Ấn Độ kêu gọi không đe dọa hay sử dụng vũ lực trên Biển Đông
Bắc Kinh đã chèn ép hầu hết các công ty nước ngoài lớn khác như BP, Chevron, ConocoPhillips và mới đây nhất là Repsol, buộc các công ty này ngừng đầu tư vào các lô dầu khí ngoài khơi của Việt Nam. Repsol và Exxon Mobil là hai công ty năng lượng nước ngoài duy nhất còn hoạt động ngoài khơi của Việt Nam. Nếu Repsol bị buộc phải ngừng hoạt động, thì Exxon Mobil, hiện đang chuẩn bị thực hiện một dự án khí tự nhiên lớn có tên gọi “Cá voi xanh” ở vùng biển phía Bắc, có thể sẽ nghĩ lại việc đầu tư của mình.
Tàu Haijing 35111 đã thất bại trong việc ngừng các hoạt động khoan dầu khí ở vùng biển của Việt Nam và Malaysia, tuy nhiên sự kháng cự cũng mang lại tổn thất.
Ngày 3/7, tàu Hải Dương 8 thuộc sở hữu của chính phủ Trung Quốc tới ngoài khơi Việt Nam và bắt đầu tiến hành khảo sát dầu khí. Hoạt động khảo sát này, hiện vẫn đang tiếp diễn, bao gồm khu vực đáy biển mà Việt Nam có các quyền không thể tranh cãi theo luật pháp quốc tế.
Các tín hiệu cho thấy, rất nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc và các thành viên của Dân quân Vũ trang biển Trung Quốc, một lực lượng bán quân sự chính thức hoạt động trên các tầu cá, hộ tống chiếc tàu khảo sát.
Việt Nam nhanh chóng phái các tàu bảo vệ giàn khoan của mình và giám sát tàu khảo sát của Trung Quốc. Điều này đã tạo ra một tình thế rất mong manh có thể dễ dàng dẫn tới va chạm dù cố ý hay không.
Từ đầu tháng 8, một tàu khảo sát khác thuộc sở hữu của nhà nước Trung Quốc, Shi Yan 2, khảo sát vùng biển của Malaysia trong vòng 1 tuần. Kể từ 14/8, một tàu khảo sát thứ 3 của Trung Quốc, Hải Dương 4, đã khảo sát một khu vực thuộc thềm lục địa mà cả Malaysia và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền.
Theo chuyên gia, không có các giải pháp quân sự cho hành vi chèn ép của Trung Quốc. Nếu Mỹ muốn tránh một cuộc khủng hoảng và chứng minh rằng mình nghiêm túc trong việc duy trì tự do trên biển, Washington sẽ cần một chiến lược ngoại giao và kinh tế lớn và cùng đồng hành với các đối tác quốc tế.
Mục đích của chiến lược này nhằm gia tăng cái giá Bắc Kinh phải trả cho hành vi của mình, cũng như chỉ rõ cho các lãnh đạo Trung Quốc thấy rằng, họ sẽ mất nhiều hơn trên trường quốc tế thay vì những gì sẽ đạt được từ chiến dịch chèn ép.
Bộ Ngoại giao Mỹ nên thuyết phục các nước khác - bao gồm các quốc gia châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia - cùng kêu gọi Trung Quốc tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý. Washington cũng có thể cấm các chủ thể tham gia vào các hoạt động quân sự chống lại nước khác làm ăn với Mỹ, tiếp cận thị trường hành chính.
Cái giá về ngoại giao - nguy cơ tổn hại uy tín và cái giá về kinh tế cần được đẩy mạnh nếu Trung Quốc tiếp tục các hành động ép buộc, bắt nạt ở trên biển.
Gregory Poling là Giám đốc Chương trình sáng kiến Minh bạch Hàng hải (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Mỹ và Murry Hiebert là chuyên gia của Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Mỹ.