Chuyên gia quốc tế hiến kế giải quyết vấn đề Biển Đông theo UNCLOS
'Việc duy trì trật tự hàng hải tự do và cởi mở là bắt buộc đối với một quốc gia. Trong gần bốn thế kỷ, các đại dương đã giữ vị thế này theo nguyên tắc pháp lý quốc tế, sau này được mã hóa trong Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về Luật biển - UNCLOS năm 1982. Tuy nhiên, kiến trúc quan trọng này đang bị đe dọa nghiêm trọng ở Biển Đông', tờ The National Interest nhận định hôm 23-10.
Đề cao nguyên tắc pháp lý
Trong bài viết mang tên “Làm thế nào để ngăn chặn Trung Quốc trên Biển Đông: Phản công hàng hải”, tác giả Hunter Stires nhấn mạnh, sự cai trị của một hệ thống quốc tế đề cao các nguyên tắc pháp lý và triết học của “tự do trên biển” là điều quan trọng nhất.
Việc duy trì trật tự và tự do hàng hải là bắt buộc đối với một quốc gia. Tuy nhiên, theo tác giả Hunter Stires, Trung Quốc đang tích cực làm việc để không chỉ đạt được sự thống trị quân sự, mà thậm chí là để áp đặt một chế độ thay thế về quản trị trên đường thủy quan trọng này.
“Mấu chốt của thách thức trên Biển Đông không phải là cuộc đối đầu vũ lực thông thường. Đây là cuộc thi chính trị về ý chí thể hiện luật pháp quốc tế trên biển so với chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc. Do đó, câu hỏi mang tính quyết định ở đây không phải là bên nào sẽ thắng thế trong trận chiến mà là người dân sẽ tuân theo luật pháp như thế nào?
Nếu không có bất kỳ biện pháp cưỡng bức nào, người dân sẽ chọn tuân theo chế độ của luật pháp quốc tế hiện hành, bảo tồn và thực thi quyền tự do biển cho tất cả các quốc gia. Những lợi ích của trật tự thịnh hành và dựa trên các quy tắc thậm chí còn mang lại sự nhẹ nhõm hơn khi so sánh với một chế độ đối lập khác, một chế độ mang biển Sinrialric, không đồng nhất và khép kín, trong đó các tàu không phải của Trung Quốc chỉ đi theo “niềm vui” của Bắc Kinh.
Trung Quốc đang tìm cách giành được phiếu bầu của người dùng thông qua việc sử dụng cưỡng chế các công cụ tiêu cực của sức mạnh quốc gia. Theo đó, Trung Quốc sử dụng sự đe dọa của nhiều lực lượng từ Lực lượng Bảo vệ bờ biển đến dân quân hàng hải, hải quân… để tạo ra sự không an toàn cho tàu dân sự đi vào Biển Đông”, tác giả Hunter Stires viết.
Tuy nhiên, tất cả những con bài, chiến lược này của Trung Quốc đang vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. Trong bài phát biểu gây chú ý tại Trung tâm nghiên cứu Wilson ở thủ đô Washington DC hôm 25-10, Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence đã một lần nữa chỉ trích việc Trung Quốc đẩy mạnh quân sự hóa những thực thể bị Bắc Kinh chiếm đóng trái phép ở Biển Đông.
"Bắc Kinh đã leo thang việc sử dụng cái mà họ gọi là các tàu "dân quân biển" để thường xuyên quấy nhiễu các ngư dân Philippines và Malaysia. Và tàu hải cảnh Trung Quốc thường xuyên dùng vũ lực hòng đe dọa, ngăn Việt Nam khoan dầu và khí tự nhiên trong chính vùng biển của Việt Nam", tờ The New York Times trích dẫn lời ông Mike Pence và nhấn mạnh, Washington muốn Trung Quốc hiểu rõ rằng không quốc gia nào có quyền tuyên bố chủ quyền phi lý trên biển.
Trước đó, trong bài tham luận gửi tới Hội nghị phát triển luật quốc tế ở châu Á diễn ra tại Indonesia, Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi khẳng định, luật pháp quốc tế là “quy tắc” và là “nền tảng cần thiết” cho cuộc đối thoại nhằm giải quyết tranh chấp.
Biển Đông cũng như các vùng biển khác trên thế giới, luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS 1982 đã tạo ra một “trật tự pháp lý” giúp thúc đẩy giao thương, khai thác và sử dụng các vùng biển một cách hòa bình, công bằng và hiệu quả.
Đồng quan điểm này, các chuyên gia trong lĩnh vực luật pháp và quan hệ quốc tế đến từ Cơ quan hành động đối ngoại châu Âu (EEAS), Viện Nghiên cứu quốc tế Hoàng gia Anh (Chatham House), Viện Egmont của Bỉ, Quỹ Nghiên cứu chiến lược (FRS) và Trường Khoa học chính trị của Pháp đã phân tích cụ thể thực trạng việc Trung Quốc tiếp tục xây dựng các cơ sở quân sự trên các đảo nhân tạo phá vỡ nguyên trạng của khu vực Biển Đông cũng như các hành động đơn phương của Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Theo các chuyên gia quốc tế, giao thông hàng hải tại Biển Đông là huyết mạch quan trọng của thương mại thế giới và phải bảo vệ quyền tự do hàng hải, kiên quyết tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm Luật biển, UNCLOS 1982 và các phán quyết của tòa trọng tài, đồng thời khuyến khích giải quyết các tranh chấp trên biển một cách hòa bình, phản đối các hành động đơn phương có thể làm thay đổi hiện trạng dẫn tới làm gia tăng căng thẳng.
Phân loại tình hình để đấu tranh
Viết kỹ hơn về những vấn đề đang nảy sinh trên Biển Đông, tờ The Diplomat cho rằng: “Hầu hết các nhà quan sát thường nhìn vào các tranh chấp ở Biển Đông với con mắt bi quan. Nhưng sự bi quan như vậy đã bỏ qua thực tế là các nước Đông Nam Á có văn hóa tuân thủ luật pháp quốc tế.
Cho dù đánh giá từ lăng kính hiện thực hay không, luật pháp vẫn là một công cụ hữu ích cho các quốc gia nhỏ để bảo vệ lợi ích của họ”. Bài viết trên tờ báo này lý giải, tất cả các bên có cùng yêu sách ở Biển Đông gồm Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam là các bên tham gia hai cơ chế pháp lý quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp đa phương: Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS 1982.
“Theo các công ước này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, như đàm phán, dàn xếp khu vực, trọng tài quốc tế hoặc tòa án. Không giống như Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS tiến thêm một bước và quy định các phương pháp chi tiết để giải quyết xung đột trên biển cho các bên trong Chương XV. Nói chung, sự đồng ý của các quốc gia được đặt ở trung tâm của tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, UNCLOS đặc biệt mở ra cơ hội cho một quốc gia riêng lẻ đưa cuộc xung đột của mình với một quốc gia khác trước tòa án hoặc trọng tài quốc tế khi đưa ra một số loại tranh chấp. Chúng được gọi là các thủ tục bắt buộc, đòi hỏi các quyết định ràng buộc trong phần 2 của chương XV của UNCLOS. Khi một quốc gia đã ký và phê chuẩn Công ước, có thể hiểu rằng họ đã đồng ý với thỏa thuận giải quyết này trước. Đây là chiến lược mà Philippines áp dụng trong vụ kiện chống lại Trung Quốc trong trọng tài Biển Đông”, bài báo có đoạn viết.
Lý do thứ 2 được đưa ra là toàn bộ tình hình ở Biển Đông có thể được phân loại thành các loại pháp lý cụ thể, có thể được giải quyết riêng theo luật trong đó, các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc mâu thuẫn đối với các đặc điểm hàng hải ngoài khơi và phải tôn trọng việc phân định ranh giới trên biển của các nước duyên hải. Yêu sách đường lười bò mà Trung Quốc dùng để tuyên bố chủ quyền hàng hải bao gồm 80% Biển Đông đã bị tòa trọng tài bác bỏ trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc năm 2016.
Về các hoạt động xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc đã ảnh hưởng xấu đến môi trường hàng hải trong khu vực, tờ The Diplomat chỉ rõ, Trung Quốc đã làm xáo trộn các hoạt động kinh tế của Malaysia, Philippines và Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước này. Tất cả các vấn đề này được giải quyết theo luật quốc tế, từ luật hiệp ước đến luật quốc tế thông thường.
Ngoại trừ hai nhóm tranh chấp đầu tiên, đòi hỏi phải có sự đồng ý rõ ràng của cả hai bên để đưa họ ra trước một cơ quan tư pháp quốc tế, phần còn lại không cần cùng một yêu cầu. Trên thực tế, họ rơi ngay vào quy trình bắt buộc theo phần XV của UNCLOS. Đáng kể hơn, theo quyết định về thẩm quyền của Tòa án Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông, tranh chấp liên quan đến tình trạng pháp lý của các đặc điểm hàng hải có thể được phân biệt và giải quyết tách biệt với tranh chấp chủ quyền.
Cũng theo phân tích của The Diplomat, những quốc gia có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông còn có một công cụ thuận tiện để giải quyết những bất đồng trong khu vực, đó là ASEAN. Môi trường thân thiện và hợp tác của ASEAN có thể tốt hơn cho việc đàm phán giữa các quốc gia tranh chấp có liên quan. Bên cạnh đó, theo điều 23 của Hiến chương ASEAN, các quốc gia thành viên có thể yêu cầu Chủ tịch hoặc Tổng thư ký ASEAN cung cấp các văn phòng hòa giải.
“Các nước ASEAN nên giải quyết tranh chấp giữa họ ở Biển Đông trước tiên, đặc biệt là phân định biên giới trên biển của họ. Cách làm này sẽ giúp họ tăng thêm trọng lượng trên bàn đàm phán với Bắc Kinh. Và một vụ kiện khác chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, bất kể sự đồng ý của nước này, cũng là một khả năng để giúp các nước này đạt được những áp lực nhất định khiến Trung Quốc phải xem xét lại các hoạt động phi pháp của mình trên Biển Đông”, tờ The Diplomat gợi ý.